Luật sư Phùng Gái

Xác định hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu?

Câu hỏi tư vấn: Bên nhà chồng chị tôi có bán tiệm cơm, chị tôi và anh rể cũng đang kinh doanh bán cơm lấy tên là A 2. Nay vợ chồng anh chị tôi không đồng quan điểm muốn ly hôn, có 2 người con 01 gái 19 tuổi và 01 trai 10 tuổi, bé gái theo cha và bé trai theo mẹ.

 

Vậy Luật Sư cho tôi hỏi là sự việc như trên thì sau khi ly hôn chị tôi có được lấy tên A 1 hay A 3 để tiếp tục kinh doanh nuôi sống bản thân và con trai không? (A là thương hiệu tiệm cơm của ông ba chồng chị tôi, thương hiệu này đã có từ lâu trước năm 1975 và đã được đăng ký bảo hộ thương hiệu). Rất mong nhận được sự trợ giúp trả lời những thắc mắc nêu trên. Gia đình chúng tôi chân thành cảm ơn!

 

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Do thông tin cung cấp không đầy đủ, rõ ràng về việc ông bà chồng của chị bạn đăng ký bảo hộ thương hiệu đối với tiệm cơm (bao gồm tên nhãn hiệu, hình dáng, màu sắc và cách trình bày..) mà chỉ nói chung " A là thương hiệu đã được đăng ký bảo hộ". Nên với thông tin trên không đủ cơ sở để khẳng định việc sau khi ly hôn chị bạn có được quyền sử dụng tên "A1 hay A 3" để tiếp tục kinh doanh hay không và việc sử dụng tên đó xâm phạm tới quyền đối với nhãn hiệu không. Theo đó, sẽ phải đối chiếu với quy định của Luật sở hữu trí tuệ để xác định. Cụ thể:

 

Điều 129. Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý

 

1. Các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:

 

a) Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó;

 

b) Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;

 

c) Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;

 

d) Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.

 

Đồng thời, Nghị định 105/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ. 

 

Điều 11. Yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu

 

1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là dấu hiệu gắn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được bảo hộ.

 

2. Căn cứ để xem xét yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là phạm vi bảo hộ nhãn hiệu, gồm mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hoá, dịch vụ được xác định tại Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc Giấy chứng nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam.

 

3. Để xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với nhãn hiệu, đồng thời phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Chỉ có thể khẳng định có yếu tố xâm phạm khi đáp ứng cả hai điều kiện sau đây:

 

a) Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ; trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo, cách trình bày (kể cả màu sắc); một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với dấu hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;

 

b) Hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ.

...

Như vậy, trong trường hợp này nếu có đầy đủ căn cứ chứng minh việc chị bạn sử dụng tên " A 1 hoặc A 3" để kinh doanh dẫn tới gây nhầm lẫn, trùng hoặc sử dụng các dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ (bao gồm về cấu tạo, cách trình bày, màu sắc, cách phát âm, chữ..) thì chị bạn không được sử dụng tên đó để thực hiện hoạt động kinh doanh khi chưa được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu. Trường hợp cố tình sử dụng thì có thể bị áp dụng xử phạt vi phạm hành chính và dừng việc sử dụng nhãn hiệu đó để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. 

 

Tuy nhiên, trong trường hợp không có căn cứ chứng minh cho việc sử dụng tên sẽ gây nhầm lẫn, trùng với nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ thì chị bạn vẫn có quyền sử dụng tên đó để kinh doanh mà không vi phạm quy định pháp luật.

 

 

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề bạn quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến Tổng đài luật sư tư vấn luật trực tuyến - 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

CV P.Gái - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo