Đinh Ngọc Huyền

Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai

Hỏi: Tên Tôi H X H, địa chỉ Nghệ An. Tôi xin hỏi: Năm 1995 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 540 m2 (trong đó có 200 m2 đất ở, 150 m2 đất vườn và 190 m2 đất vườn thừa).


Trong quá trình sử dụng gia đình tôi khai phá thêm. Đến năm 1998 tôi có chuyển nhượng cho ông A cùng thôn, giấy viết bằng tay và thỏa thuận 20 năm sau chia đất lại ( theo nghị định 64 CP). Năm 2007 xã tổ chức đo lại diện tăng lên là 1281 m2. Đến năm 2012 ông A xin làm thủ tục sang tên và đòi gia đình tôi sang tên toàn bộ diện tích 1281 m2. Tôi không nhất trí. Ủy ban nhân dân xã đã nhiều lần hòa giải song không thành. Đến 24/3/2016 Ủy ban nhân dân xã và Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông A. Hồ sơ chuyển nhượng gia đình tôi không ký. Xin hỏi Luật sư việc làm trên có đúng quy định pháp luật không. Nêu sai tôi phải làm gì để lấy lại số diện còn thừa so với hợp đồng chuyển nhượng. Xin cảm ơn .

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 
  • Thứ nhất, về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông A:

Theo thông tin bác cung cấp thì năm 1995 bác được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 540 m2 ( trong đó có 200 m2 đất ở, 150 m2 đất vườn và 190 m2 đất vườn thừa). Trong quá trình sử dụng gia đình bác khai phá thêm. Đến năm 1998 bác có chuyển nhượng cho ông A cùng thôn, giấy viết bằng tay và thỏa thuận 20 năm sau chia đất lại. Tuy nhiên, ở đây bác không nêu rõ gia đình bác chuyển nhượng cho ông A diện tích đất là bao nhiêu, chuyển nhượng toàn bộ hay một phần diện tích 540 m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chuyển nhượng phần đất do gia đình bác khai phá thêm chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Nếu gia đình bác chỉ có quyền chuyển nhượng phần diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Còn phần đất khai phá thêm chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thì gia đình bác không có quyền chuyển nhượng theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 Luật đất đai 1993:

“ Không được chuyển quyền sử dụng đất trong những trường hợp sau đây:
  1. Đất sử dụng không có giấy tờ hợp pháp;”

Đồng thời gia đình bác và ông A chuyển nhượng quyền sử dụng đất có giấy tờ viết tay. Ở đây, bác không nêu rõ giấy chuyển nhượng có được công chứng, chứng thực hay không. Trong trường hợp giấy chuyển nhượng viết tay và không có công chứng, chứng thực thì:

Căn cứ tại Điều 101 Luật đất đai năm 2013 có quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất như sau:
 
"1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
 
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất".

Như vậy, trong trường hợp của gia đình bác và ông A đang có tranh chấp về việc ông A muốn được sang tên toàn bộ diện tích 1281m2 nhưng bác không đồng ý và được được ủy ban nhân dân xã hòa giải nhiều lần nên đất hiện nay là đất đang có tranh chấp. Vì vậy, việc 24/3/2016 Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông A là trái với quy định pháp luật.

Trường hợp giấy chuyển nhượng giữa gia đình bác và ông A viết tay có công chứng, chứng thực nhưng hiện nay đất đang có tranh chấp và ủy ban nhân dân xã đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành thì ông A cũng không đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
 
  • Thứ hai, khiếu nại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND.

Gia đình bác không chuyển nhượng toàn bộ diện tích 1281m2 cho ông A nên khi ông A được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì:

Căn cứ Điều 204 Luật Đất đai năm 2013 quy định:

- Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.

- Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại.

Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

Như vậy, nếu quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông A là không đúng, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình bác thì bác có quyền khiếu nại quyết định hành chính đó.

 Trình tự khiếu nại (Điều 7 Luật Khiếu nại 2011):

Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

 Hình thức khiếu nại (Điều 8 Luật Khiếu nại 2011):

- Việc khiếu nại được thực hiện bằng đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp.

- Trường hợp khiếu nại được thực hiện bằng đơn thì trong đơn khiếu nại phải ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại; tên, địa chỉ của người khiếu nại; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; nội dung, lý do khiếu nại, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại và yêu cầu giải quyết của người khiếu nại. Đơn khiếu nại phải do người khiếu nại ký tên hoặc điểm chỉ.

- Trường hợp người khiếu nại đến khiếu nại trực tiếp thì người tiếp nhận khiếu nại hướng dẫn người khiếu nại viết đơn khiếu nại hoặc người tiếp nhận ghi lại việc khiếu nại bằng văn bản và yêu cầu người khiếu nại ký hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều này.

Như vậy, bác có thể khiếu nại bằng đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp gửi tới ủy ban nhân dân huyện.
 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng!

CV. Lê Thảo - Công ty Luật Minh Gia.

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo