Trần Phương Hà

Tư vấn về việc không đồng ý với quyết định bồi thường khi thu hồi đất

Từ năm 1969, bố mẹ vợ tôi có tự khai phá và sử dụng từ đó đến nay khoảng 7.000 m2 đất (Gồm hỗn hợp đất ở, đất vườn, đất vườn đồi trông cây hàng năm và lâu năm), có ranh giới với các hộ dân xung quanh, chưa làm giấy CNQSD đất (Có xác nhận của UBND xã) .Năm 2011, 2012 Nhà nước đã thu hồi khoảng 1/3 (Khoảng giữa) để mở đường, trong đó gồm đất làm đường, một bên do ta ly thấp thu hồi cả đất cắm tái định cư cho các hộ dân, còn 1 bên mặt đường do ta ly cao nên chỉ thu hồi đủ diện tích đất làm đường.

 

Số còn lại hiện tài thành 2 khu đất: - Khu 1 giáp mặt đường vào đền có chiều dài mặt đường khoảng 60 mét, chiều sâu từ 15 mét đến 50 mét.- Khu 2: Phía sau khu dân cư (Đối diện với khu 1 qua đường mới mở) có diện tích trên 1.000 m2. Bố mẹ vợ tôi có 5 người con 4 chị và 1 cậu út (Sinh từ năm 1963 đến 1975). Năm 2013, sau khi Nhà nước làm xong đường, khu đất còn lại bố mẹ tôi tuyên bố 5 chi em tự chia nhau và tự làm thế nào để giữ được miếng đất. Sau đó 5 chị em nhà vợ tôi đã thống nhất tự ý đánh đất hạ ta ly khu 1 theo chiều mặt đường có chiều sâu từ 12- 18 mét. Tổng số đất đã đánh, chuyển đi khoảng 15.000 m3. Trong quá trình thuê người đánh, do gặp phải đá nên cho nổ mìn gây ảnh hưởng an ninh nên UBND xã đã cho người đến yêu cầu dừng lại (Chỉ nhắc nhở, không có biên bản), chi phí đánh đất khoảng trên 600 triệu, đã thanh toán 500 triệu. Tiếp đó 5 chị em đã dựng 3 nhà gỗ lên khu đất đó (01 nhà do cậu út ở, 1 nhà cho thuê, 1 nhà không có người ở).

 

Cuối năm 2016 đến nay, UBND huyện  tiếp tục có thông báo thu hồi khoảng 120 mét mặt đường của 11 hộ dân, trong đó có khoảng 60 mét của 5 chị em vợ tôi để san tạo mặt bằng và chuyển thành quỹ đất dân cư. Nội dung làm việc lần 1: Hội đồng giải phóng mặt bằng đến kiểm kê tài sản trên đất để tính đền bù.

 

Nội dung làm việc lần 2: Thông báo các hạng mục tài sản được đền bù, mức đền bù. Nhiều hộ dân khác cũng như 5 chị em nhà vợ tôi không nhất trí với hạng mục cũng như mức đền bù cụ thể: Mức đền bù đất gần 2.000 lập đền bù cho bố mẹ vợ tôi, chỉ đền bù theo giá đất nông nghiệp (26.000/m2), không có hỗ trợ với lý do ông bà đã quá tuổi lao động.Đền bù tài sản trên đất: Chỉ đền bù 5 chị em các công trình phụ trợ (Bếp, công trình phụ,…) không đền bù nhà ở chính (Nhà gỗ) với lý do làm nhà bất hợp pháp.Phần chi phí san tạo của 5 chị em không có trong danh mục đền bù, được thành viên HĐGPMB giải đáp là không có trong danh mục đền bù, tuy nhiên thực tế đã nhìn thấy, do vậy sau này sẽ trao đổi với chủ thi công san tạo mặt bằng hỗ trợ phần nào đó cho gia đình.Trong cuộc làm việc 5 chị em và 1 số hộ khác đều kiến nghị cho mỗi hộ được mua lại 1 lô đất Ngày 16/4/2017 chúng tôi nhận được Văn bản thông báo cuả UBND huyện với sơ bộ nội dung: Chấp thuận đền bù chi phí san tạo mặt bằng của 5 chị em chúng tôi theo đơn giá đền bù năm 2013; Không chấp thuận đề nghị được mua lại đất cho bất cứ hộ nào, Không chấp thuận bồi thường tài sản trên đất (Nhà ở chính).

 

Về vụ việc chúng tôi nhận thấy: Chủ đầu tư và HĐGPMB đã cố tình áp dụng các quy định của pháp luật gây bất lợi cho người dân nói chung và 5 chị em chúng tôi nói riêng, chỉ có lợi cho chủ đầu tư. Chúng tôi không thể có đủ kiến thức pháp luật về đất đai để đấu tranh đòi quyền lợi hợp pháp, chính đáng. Đề nghị được tư vấn xem có thể đấu tranh để người dân có lợi hơn trong vụ việc này không. Cần thiết chúng tôi sẽ trao đổi thêm với 5 hộ dân còn lại trong vụ việc này.

 

Trả lời tư vấn: Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của bạn, công ty tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, về việc bồi thường tái định cư hoặc giao nhà ở

 

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai 2013 quy định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như sau:

 

“2. Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm

 

a) Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất;

 

b) Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở;

 

c) Hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở;

 

d) Hỗ trợ khác.”

 

Như vậy, khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường theo quy định còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở. Đối với trường hợp hỗ trợ  tái định cư thì chỉ áp dụng khi việc thu hồi là đất ở (người bị thu hồi có giấy tờ là đất ở hoặc có căn cứ chứng minh đất đang ở đủ điều kiện được công nhận là đất ở).

 

Cũng theo quy định tại Điều 25 Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về việc hỗ trợ khác đối với người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

 

"Ngoài việc hỗ trợ quy định tại các Điều 19, 20, 21, 22, 23 và 24 của Nghị định này, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định biện pháp hỗ trợ khác để bảo đảm có chỗ ở, ổn định đời sống, sản xuất và công bằng đối với người có đất thu hồi; trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không đủ điều kiện được bồi thường theo quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét hỗ trợ cho phù hợp với thực tế của địa phương; trường hợp đặc biệt trình Thủ tướng Chính phủ quyết định."

 

Cũng theo quy định tại Khoản 2 Điều 6 Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định như sau:

 

“2. Trường hợp trong hộ gia đình quy định tại Khoản 1 Điều này mà trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất ở thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một (01) thửa đất ở thu hồi thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất ở, nhà ở tái định cư và tình thực tế tại địa phương quyết định mức đất ở, nhà ở tái định cư cho từng hộ gia đình.”

 

Như vậy, đối với yêu cầu mỗi hộ gia đình mua 1 mảnh đất thì chỉ áp dụng đối với các hộ gia đình có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất ở thu hồi. 

 

Thứ hai, về bồi thường tài sản trên đất

 

Theo quy định của Khoản 1 Điều 92 Luật đất đai 2013 các trường hợp sau sẽ không được bồi thường về tài sản gắn liền với đất:

 

“1. Tài sản gắn liền với đất thuộc một trong các trường hợp thu

 

hồi đất quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, i khoản 1 Điều 64 và điểm b, d khoản 1 Điều 65 của Luật này.

 

2. Tài sản gắn liền với đất được tạo lập trái quy định của pháp luật hoặc tạo lập từ sau khi có thông báo thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

 

3. Công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và công trình xây dựng khác không còn sử dụng.”

 

Từ quy định tại Khoản 1 Điều 92 Luật đất đai 2013 dẫn chiếu tới Điều 64 như sau:

 

“1. Các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai bao gồm:

 

a)Sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm;

…”

 

Căn cứ quy định trên của pháp luật, trường hợp này của gia đình bạn sử dụng đất nông nghiệp để xây nhà ở trên đó là hành vi sử dụng đất không đúng mục đích, do đó tài sản gắn liền với đất là căn nhà đó sẽ không được bồi thường.

 

Thứ ba, Chi phí đầu tư vào đất 

 

Theo quy định tại Điều 3 quy định về Bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng như sau:

 

“2. Chi phí đầu tư vào đất còn lại là các chi phí mà người sử dụng đất đã đầu tư vào đất phù hợp với mục đích sử dụng đất nhưng đến thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất còn chưa thu hồi hết. Chi phí đầu tư vào đất còn lại gồm toàn bộ hoặc một phần của các khoản chi phí sau:

 

a) Chi phí san lấp mặt bằng;”

 

Đối với trường hợp trên của gia đình bạn, 5 chị em gia đình vợ bạn đã thống nhất đánh đất hạ ta ly khu 1 theo chiều mặt đường có chiều sâu từ 12- 18 mét. Và chi phí đánh đất khoảng trên 600 triệu, đã thanh toán 500 triệu. Như vậy, có thể hiểu gia đình vợ bạn đã tiến hành san lấp mặt bằng đồi với phần đất đó. Như dữ liệu bạn đã nêu thì: Uỷ ban nhân dân huyện đã chấp thuận đền bù chi phí san tạo mặt bằng của 5 chị em gia đình bạn theo đơn giá đền bù năm 2013 là hoàn toàn hợp lý.

 

Thứ tư hỗ trợ, chuyển đổi nghề khi thu hồi đất nông nghiệp

 

Theo quy định tại Khoản 6 Điều 4 Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 20 Nghị định 47/2014/NĐ-CP  quy định về việc hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp như sau: 

 

"6. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 20 như sau:

 

1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy định tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều 19 của Nghị định này khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà được bồi thường bằng tiền; hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều 19 của Nghị định này (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông, lâm trường quốc doanh, của công ty nông, lâm nghiệp được chuyển đổi từ các nông, lâm trường quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp) khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định sau đây:

 

a) Hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong bảng giá đất của địa phương đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi; diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương theo quy định tại Điều 129 của Luật đất đai;

 

b) Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ điều kiện thực tế của địa phương.”

 

Như vậy, nếu bố mẹ bạn không thuộc một trong các trường hợp sau: Hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông, lâm trường quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp. Thì sẽ được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề bạn quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến Tổng đài luật sư tư vấn luật trực tuyến - 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời

 

Trân trọng

C.V: Giàng Thị Minh  - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo