Luật sư Dương Châm

Tư vấn liên quan đến Giấy chứng nhận ao, hồ

Hỏi: Gia đình tôi vào Nam lập nghiệp năm 1980 và khai hoang một thửa đất 1.2 ha. Cùng năm đó, vì nhu cầu nước tưới cho cây Cà phê nên gia đình tôi cùng 14 hộ dân khác có rẫy liền kề đã họp bàn và chung tiền bỏ ra thuê máy ủi, máy múc...

Mục đích là nhằm ngăn dòng nước suối tạo thành đập thủy lợi chứa nước vào năm 1990 để phục vụ nước tưới cho 14 hộ dân có rẫy trong vùng. Diện tích mặt nước hoàn toàn ờ phần chân rẫy của tất cả 14 hộ, trước đó là sình lầy không thuộc quyền sở hữu của ai. Hiện tại, hồ nước này vẫn giữ nguyên hiện trạng không thay đổi về kích thước, diện tích mặt hồ. Nay vì nhu cầu nước tưới tiêu lớn mà nguồn nước tưới chung không cung cấp đủ từ hồ nước này nên gia đình tôi muốn thuê máy múc để múc một ao nhỏ sát chân rẫy của nhà tôi và các hộ khác cũng muốn múc hồ nhỏ tại chân rẫy để chủ động nguồn nước tưới. Chính lúc này phát sinh ra tranh chấp với một hộ dân (Ông B) cách hồ nước 300 m, ở bên bờ hồ bên kia phía dưới chân đập. ông B không cho tôi và các hộ có nhu cầu múc hồ với lý do hồ này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông vào năm 2000, toàn bộ diện tích đất mặt hồ là của ông. Tôi và các hộ dân thấy quá vô lý.

Thứ nhất: Hồ chung do 14 hộ dân tự bỏ tiền ra để đắp đập tạo thành hồ chứa nước năm 1990 thì tại sao lại cấp giấy chứng nhận được cho cá nhân. (rất tiếc các giấy tờ thuê máy thi công tạo lập hồ hiện nay không còn).

Thứ 2: Hồ nước này ông B không sử dụng chung, rẫy ông cách xuống bờ đập hai rẫy (khoảng 300m) nữa mới tới, lúc bỏ tiền chung để làm hồ ông B không đóng tiền.

Thứ 3: Việc ông B kê khai cấp sổ đỏ năm 2000 các hộ dân hoàn toàn không ai biết.

Vậy theo quy định của pháp luật thi ông B kê khai và được cấp Giấy chứng nhận đó có đúng không? theo ông B thì diện tích hồ đã được nhà nước giao cho ông, có sổ đỏ, mục đích để nuôi trồng thủy sản từ năm 2000, nhưng ông B chỉ nhận thầu và nuôi cá được một vụ và bỏ hoang từ năm 2001 đến nay. 14 hộ dân vẫn sử dụng hồ nước bình thường trong khi hồ là của chung. Việc làm của phòng Tài nguyên môi trường thị xã tham mưu cho Uỷ ban nhân dân thị xã cấp giấy có tắc trách không? Vì làm sổ đỏ nhưng không 1 ai biết, ký giáp ranh, ai là người có thẩm quyền giao đất trong trường hợp này... Nếu đã cấp rồi thì các hộ dân chúng tôi phải làm như thế nào để kiến nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không hợp pháp của ông B theo quy định và căn cứ của pháp luật trả lại hồ nước sử dụng chung cho 14 hộ dân được tự do sử dụng, cải tạo. 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi yêu cầu tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi xin tư vấn như sau:
 
 Nếu trên thực tế đúng như bạn đã trình bày thì khu ao hồ đó trước là sinh sình lầy không thuộc quyền sở hữu của ai nên không có giấy tờ gì. Hơn nữa, ông B còn không sử dụng đến khu áo hồ đó mà do 14 hộ dân sử dụng ổn định từ trước.
 
Vậy để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi không có giấy tờ về quyền sử dụng đất thì căn cứ Khoản 1 Điều 101 Luật đất đai 2013:
 
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.
 
Theo đó, khi ông B xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã là đất sử dụng ổn định, không có tranh chấp. Tuy nhiên, khi ông B xin cấp Giấy chứng nhận không có xác nhận gì bởi các hộ lân cận không biết gì về việc này và cũng không có chữ ký của họ, do đó, cũng chưa chứng minh được vấn đề đất không có tranh chấp và sử dụng ổn định.
 
Như vậy, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B là chưa đúng thủ tục theo quy định của pháp luật nên không đủ điều kiện được cấp.
 
Để bảo vệ quyền lợi của mình, các hộ dân còn lại có thể làm đơn lên Uỷ ban nhân dân cấp huyện để yêu cầu thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 106 Luật đất đai 2013:
 
“d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai”.
 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn liên quan đến Giấy chứng nhận ao, hồ. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng!
 
CV. Hoài Trang- Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo