Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Quyền định đoạt tài sản chung vợ chồng khi vợ, chồng chết

Gia đình bên vợ tôi có tổng cộng là 9 anh em , bố vợ tôi mới mất được 1 năm. Toàn bộ giấy tờ đều do ba vợ tôi nắm hết, nay me tôi muốn bán nhà thì phải làm sao. Mẹ vợ tôi rất thương yêu Em Út của vợ tôi dù cho nó làm nợ bao nhiêu, bây giờ mẹ vợ tôi tính bán nhà được 1 tỷ 7 rồi mua nhà cho cậu út 800 còn bao nhiêu chia cho anh em mỗi người một ít ( nhà vợ mẹ tôi rất trọng nam khinh nữ )
Nội dung yêu cầu :

Mới đầu anh em ai cũng đồng ý vì sợ mẹ buồn nhưng càng ngày cậu út càng qúa đáng và có khoàng 3, 4 người con đổi ý không cho cậu út. Vậy luật sư cho hỏi : Nếu có 3, 4 người phản đối thì mẹ tôi có cho cậu út nhà được không và luật sư cho hỏi có cách nào để ràng buộc căn nhà sẽ mãi là nhà thờ không được bán dù cậu út có đứng tên.

Trả lời:

Cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi yêu cầu, Công ty Luật Minh Gia xin tư vấn cho anh như sau:

1. Mẹ anh muốn bán nhà có được không? 

Theo quy định tại Điều 675, 676 Bộ luật dân sự năm 2005:
 

" Điều 675. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
 

1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

a) Không có di chúc;

b) Di chúc không hợp pháp..." 
 

" Điều 676: Người thừa kế theo pháp luật
 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
 

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
 

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
 

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
 

Theo quy định trên, sẽ có hai trường hợp: 

-  Trường hợp 1: Mảnh đất đó là tài sản chung của vợ chồng ( có thể do một mình bố anh đứng tên). Theo quy định tại Luật hôn nhân và gia đình 2014, khi một bên vợ hoặc chồng chết, tài sản chung sẽ được chia đôi. Sau khi bố anh chết, tất cả tài sản chung của bố mẹ anh sẽ phải chia đôi, một nửa thuộc quyền của mẹ anh, một nửa được xác định là di sản thừa kế của bố anh. Nếu bố anh chết không có di chúc thì số di sản đó sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, vợ, chồng, con đẻ, con nuôi của người chết và mỗi người sẽ được chia những phần bằng nhau ( trừ trường hợp những người đồng thừa kế có thỏa thuận khác). Vậy nghĩa là mẹ anh chỉ có quyền với một nửa mảnh đất của mẹ anh và một phần được chia từ phần di sản bố anh để lại. nên mẹ anh chỉ có quyền bán phần của mình. 

- Trường hợp 2: Mảnh đất là tài sản riêng của bố anh nếu mảnh đất là của bố anh trước khi kết hôn; mảnh đất bố anh được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân và không có thỏa thuận nhập vào tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp này, toàn bộ mảnh đất sẽ là di sản thừa kế do bố anh để lại và sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất như trên. Trong trường hợp này, mẹ anh chỉ có quyền bán một phần mảnh đất được thừa kế từ bố anh.

Vì vậy, từ những quy định của pháp luật, mẹ anh không có quyền quyết định bán toàn bộ mảnh đất trên nếu không có văn bản thỏa thuận sự đồng ý của tất cả những người đông thừa kế để mẹ anh bán ( văn bản phải có công chứng). 

2. Di sản sử dụng vào việc thờ cúng

 

 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng như sau:

" 1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
 

Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
 

Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng". 


Theo quy định của pháp luật hiện hành, di sản chỉ được sử dụng vào việc thờ cúng khi người chết có di chúc để một phần di sản vào việc thờ cúng hoặc không có di chúc nhưng những người đồng thừa kế thỏa thuận để một phần di sản vào việc thừa kế. Các con của ông bà chỉ có quyền với phần di sản do ông để lại ( một nửa mảnh đất) còn phần đất của bà thì bà vẫn hoàn toàn có quyền quyết định, nếu bà cho con út phần đất đó và con út đứng tên thì những người con khác không có quyền gì với phần đất đó. 
 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Quyền định đoạt tài sản chung vợ chồng khi vợ, chồng chết. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng
C.V Nguyễn Thị Quyên - Công ty Luật Minh Gia
 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo