LS Hồng Nhung

Khởi kiện tranh chấp đất đai có cần biên bản hòa giải

Kính thưa quý luật sư Luatminhgia.Cha chúng tôi, (đã mất năm 2010) có miếng đất được thừa kế từ cha me.Miếng đất này chia thành 2 phần:Phần đất thứ nhất (đã có GCNQSDĐ,số sổ :1024,ký ngày 23/04/2002) có diện tích 4250 m2.Phần đất thứ 2 (chưa cấp GCNQSDĐ) số thửa :220,219, 189,190,191,192 (Theo tài liệu 2003) với diện tích khoảng hơn 10000 m2.Trải qua thời kì hợp tác hóa nông nghiệp những năm 80 cho đến thời gian gần đây, phần đất này có giai đoạn bị bỏ trống do điều kiện khó khăn nên gia đình ch

 

Nhưng trong quá trình thực hiện sự phân công của gia đình,người chị thứ Hai của chúng tôi  cùng với chồng  đã lợi dụng sự phân công của mẹ (dọn dẹp lại mãnh đất này) âm thầm và tự ý tiến hành đo đạc và làm thủ tục xin cấp GCNQSĐ cho riêng mình trên phần đất có số thửa 198,190,191,192 trong tổng số diện tích đất mà chúng tôi dự kiến làm hồ sơ .Bà chị hai cho rằng thử 198,190,191,192 là đất vô chủ (?),chị có công khai phá nên nên có quyền xin cấp giấy CNSDĐ.Điều này khiến cho gia đình xảy ra tranh chấp,gây bất bình và mất đoàn kết nội bộ dù đã tổ chức thương thuyết vài lần nhưng không thành.Khi phát hiện sự việc trên của người con thứ hai,chúng tôi đã gửi đơn xin ngăn chặn thủ tục xin cấp GCNQSDĐ  và đơn xin giải quyết tranh chấp, Sau 3 lần hòa giải không thành ở xã,chúng tôi nhờ người em họ làm đơn khởi kiện ra tòa án nhân huyện.Khi tòa án thụ lý hồ sơ thì báo chúng tôi rằng hồ sơ chúng tôi không đủ điều kiện xem xét với lý do duy nhất là trong biên bản hòa giải tranh chấp không thể hiện rõ phần đất đang tranh chấp.Vì vậy thẩm phán dọa sẽ đình vụ kiện nhưng sau đó yêu cầu bên nguyên phải về bổ sung hồ sơ trong thời hạn 30 ngày.Về xem lại thì rõ ràng thư kí các buổi hòa giải đã ghi nhận không đầy đủ,sai ý, sai số liệu mà chúng tôi cung cấp,chúng tôi đã chủ quan không nghe kĩ phần đọc biên bản nên đã đồng kí tên.Vậy xin hỏi Luatminhgia chúng tôi phải làm gì:Thẩm phán yêu cầu như thế để bác đơn chúng tôi có đúng luật không trong khi đơn xin giải quyết tranh chấp đã nêu rõ phần đất đang tranh chấp?Làm sao bổ sung yêu cầu của tòa là thể hiện phần đất tranh chấp vào biên bản hòa giải đã kí ở xã?Nếu không bổ sung theo yêu của tòa thì chúng tôi làm gì tiếp theo ?Xin trân trọng và biết ơn quý vị khi được sự tư vấn.

 

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đề nghị tư vấn tới Luật Minh Gia, vấn đề bạn hỏi chúng tôi xin tư vấn như sau:

 

Tại Điều 202 Luật đất đai 2013 quy định về hòa giải tranh chấp đất đai

 

"1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.

2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.

3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai..."

 

Theo quy định trên, tranh chấp đất đai trước tiên phải hòa giải ở UBND cấp xã. Gia đình bạn đã hòa giải tại UBND cấp xã 3 lần nhưng trong biên bản hòa giải tranh chấp không thể hiện rõ phần đất đang tranh chấp nên bạn chưa đủ điều kiện để khởi kiện, Tòa án không nhận đơn của bạn là không trái quy định pháp luật.

 

Tại Khoản 57 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP quy định về thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai như sau: “Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà các bên tranh chấp có ý kiến bằng văn bản khác với nội dung đã thống nhất trong biên bản hòa giải thành thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức lại cuộc họp Hội đồng hòa giải để xem xét giải quyết đối với ý kiến bổ sung và phải lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành.”

 

Như vậy, với trường hợp của bạn, trước tiên bạn hãy yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức lại hòa giải để lập lại biên bản hòa giải trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải lần trước.

 

Khi việc hòa giải tại UBND cấp xã không thành thì bạn có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân hoặc nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều 203 Luật đất đai 2013:

 

“Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;

2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật

này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:

a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;

b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;

3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:

a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.” 

 

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề bạn quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến Tổng đài luật sư tư vấn luật trực tuyến - 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời

 

Trân trọng

CV. Hải Hằng - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo