LS Hồng Nhung

Chia thừa kế đối với đất hộ gia đình như thế nào?

Xác định người sử dụng đất đối với đất hộ gia đình như thế nào? Trong trường hợp các thành viên trong hộ gia đình có người chết thì phân chia di sản thừa kế ra sao? Luật Minh Gia tư vấn như sau:

Nội dung tư vấn: Dạ kính thưa luật sư, cho em hỏi vấn đề sau ạ! Năm 1995 nhà em được cấp sổ đỏ hộ gia đình tên ba em theo luật đất đai 1993 với nguồn gốc đất trên giấy tờ bên xã ghi là toàn bộ diện tích đất do ba em mua lại của hợp tác xã. Hộ em lúc đó có ba em, bà nội em, 2 chị em em. Vì mẹ em mất 1989, ông nội em mất 1988. Một cô lấy chồng trước 1960, một cô lấy chồng trước 1970, một cô lấy chồng 1984, một cô lấy chồng 1988, các cô được nhà nước cấp đất hộ gia đình, có cô diện tích đất cấp gấp gần 3 lần đất nhà em, cô được ông bà em lo nhà cửa ở. Còn ba mẹ em sống với ông bà trên đất ông bà từ trước 1945 nhưng không hiểu sao bên xã ghi toàn bộ diện tích đất nhà em theo kê khai 201/1980 là của hợp tác xã, sau đó khi làm sổ cho hộ gia đình em thì ghi là toàn bộ diện tích đất ba em mua của hợp tác xã. Mà thực tế ba em có mua một phần đất của chú bà con mà đất này chú mua của hợp tác xã, rồi xác nhập vào phần đất đã ở từ trước. Bà nội em mất 2014.

Nay cô em đòi chia thừa kế đất của ông nội và bà nội em. Cô em nói ba em chỉ đại diện gia đình quản lý đất còn đất là của ông bà nội nên sẽ chia đều cho 5 người con. Cô em nói sẽ chứng minh nguồn gốc đất của ông bà nội em và nói ba em mắc tội cố ý đứng tên sổ đỏ. Sổ đỏ cấp không đúng đối tượng, đúng trình tự nên sẽ bị hủy để chia thừa kế. Có 2 cô trong 4 cô nói làm đơn kiện ba em nếu ba em không cắt đất cho 2 cô. Mà ba em giờ bị tâm thần rồi. Vậy có được không thưa luật sư.

Ba em là chủ hộ lúc cấp đất hộ gia đình thì nói ba em cố ý đứng tên sổ đỏ là sao thưa luật sư. Lúc nghị định 64 ba em có để tên bà nội mà đoàn kiểm tra gạch tên bà nội lấy tên ba em làm sổ vì họ lấy theo giấy tờ cũ đã tên ba em. Còn ai đã kê khai tên ba em mà không phải tên ông em hay tên bà em để làm giấy tờ cũ gì như đoàn kiểm tra nói lúc đó thì ba em không biết, mà ông bà thì đã mất, giấy tờ bên xã chỉ còn kê khai 201/1980 đất hợp tác xã và ba em mua đất của hợp tác xã. Hợp tác xã giải thể năm 1992. Sau đó ba em mới mua thêm đất của chú bà con (mua miệng ạ). Ba em còn giữ sổ nộp thuê nông nghiệp năm 1991 ạ. Năm 1995 thì được cấp sổ đỏ hộ gia đình là sổ đỏ đầu tiên không có sang tên từ ông bà em ạ. Như vậy theo pháp luật thì sẽ như thế nào ạ? Cảm ơn luật sư. Kính chúc luật sư luôn mạnh giỏi!

 

Trả lời tư vấn: Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, xác định người sử dụng đất theo quy định của pháp luật:

 

Căn cứ thông tin bạn cung cấp, mảnh đất ba bạn đang đứng tên được xác định là đất cấp cho hộ gia đình theo quy định của Luật Đất đai 1993. Mặc dù theo quy định của Luật Đất đai 1993 không có quy định cụ thể về đất hộ gia đình nhưng có thể hiểu hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận quyền sử dụng đất (Khái niệm này đã được ghi nhận tại Khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013).

 

Như vậy, đối với đất cấp cho hộ gia đình thì những người có tên trên sổ hộ khẩu tại thời điểm nhà nước cấp đất được công nhận là người sử dụng đất hợp pháp. Theo đó, đối chiếu với thông tin bạn cung cấp cho thấy ông bà bạn sống chung với gia đình bạn từ trước năm 1945; vì vậy, nếu ông bà bạn có tên trên sổ hộ khẩu tại thời điểm nhà nước công nhận quyền sử dụng đất thì ông bà bạn cũng được xác định là người sử dụng đất. Trường hợp trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi nhận tên của cha bạn thì có thể xác định cha bạn là người đại diện cho hộ gia đình đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

 

Thứ hai, đối với vấn đề phân chia di sản thừa kế của ông bà:

 

Trong trường hợp ông bà của bạn mất đi thì sẽ đặt ra vấn đề phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. Di sản thừa kế mà ông bà để lại sẽ được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của ông bà, phần tài sản của ông bà trong khối tài sản chung vợ chồng. Di sản thừa kế được chia cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông bà theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015:

 

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

 

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

 

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

...”

Việc phân chia di sản thừa kế sẽ được thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế. Trường hợp không thỏa thuận được thì một trong những người thừa kế có thể khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật.

 

Tuy nhiên, thông tin bạn cung cấp cho thấy hiện nay chưa xác định được phần tài sản của ông bà trong khối tài sản chung của hộ gia đình. Do đó, các bên có thể xác định theo thỏa thuận hoặc khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu xác định.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng 

Phòng Luật sư tư vấn - Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo