Triệu Lan Thảo

Việc để lại toàn bộ mảnh đất của 2 vợ chồng cho con của vợ 2 có hợp pháp không?

Tư vấn trường hợp sau: hiện tại ông nội tôi có 2 vợ, vợ cả mất năm 1981, có 2 người con 1 trai và một gái. Ông nội cưới vợ 2 vào năm 1984 và có 3 người con gái. Ba tôi là trai trưởng và cưới vợ năm 1982. Ba tôi cưới vợ và ở trên đất của ông bà nội lập nên, sau đó ông quen vợ 2 đòi ra đất mới nên ba mẹ tôi và em gái ba tôi đã phụ tiền và công sức lập nên ngôi đất mới của cụ nội cho ông nội tôi và bà 2

 

Nội dung tư vấn:  Bây giờ ông nội tôi chia đất thì chỉ chia cho 3 cô con gái của bà 2 vậy trường hợp này có đúng không? ba tôi có được hưởng phần nào không? Phần đất này cần để làm nơi thờ các cụ của họ do ông nội tôi làm trưởng. Mong nhận hồi âm

 

Trả lời tư vấn: Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Để xác định việc ông nội bạn chia đất cho 3 cô con gái của bà 2 có hợp pháp không thì cần phải xác định đất đó là thuộc sở hữu của ai. Trường hợp mảnh đất đó thuộc sở hữu riêng của ông nội bạn hay là tài sản chung của ông nội bạn với bà 2 thì ông bạn có quyền để lại mảnh đất đó cho 3 cô con gái của vợ 2 và bạn không có quyền đòi phân chia di sản. Trường hợp mảnh đất đó được xác định là tài sản chung của ông nội bạn và bà nội bạn thì căn cứ theo quy định tại Điều 66 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì:

 

“Điều 66. Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết

 

1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.

 

2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.

 

3. Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.

 

4. Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.”

 

Theo quy định tại khoản 2 Điều này thì tài sản chung sẽ được chia đôi. Phần tài sản của bà bạn được xác định là di sản thừa kế. Do bà bạn mất không để lại di chúc nên theo quy định tại khoản 1 Điều 650 bộ luật dân sự 2015 thì phần di sản của bà bạn sẽ được chia theo pháp luật.

 

Căn cứ theo Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 thì:

 

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

…”

 

Như vậy, về phần di sản của bà nội bạn sẽ được chia cho ông nội, ba và cô của bạn. Vì vậy việc ông nội bạn chỉ chia đất cho 3 cô con gái là không hợp lý vì ông bạn chỉ có quyền chia di sản của ông bạn và di sản của bà bạn thì ba bạn và cô bạn có quyền được hưởng phần di sản này. Theo đó, bố bạn có quyền gửi đơn tới Tòa án nhân dân cấp quận/ huyện để yêu cầu chia di sản thừa kế.

 

Về thời hiệu thừa kế thì do bà bạn mất năm 1981 nên theo quy định của pháp luật thì đối với những việc thừa kế đã mở trước 10-9-1990, thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990. Mà theo quy Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:

 

“Điều 623. Thời hiệu thừa kế

 

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

 

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

 

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

 

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

 

Do đó, thời hiệu thừa kế vẫn còn và ba bạn có quyền gửi đơn tới Tòa án yêu cầu phân chia di sản thừa kế của bà nội bạn.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.

CV tư vấn: Dương Thị Thảo - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo