Hoàng Thị Nhàn

Tư vấn về vấn đề chia thừa kế theo pháp luật

Cha và Mẹ tôi mất năm 1991 để lại cho 10 người con mảnh đất vườn không để lại di chúc, được chia thành 02 phần: Phần thứ nhất chia cho các con vào 1998 như sau: Ông X được 04 lô (với quyền trưởng nam, thành viên gia đình, hưởng lô của cha và mẹ) và được lựa chọn tốt nhất phần đất được chia kèm theo đó là có nghĩa vụ cúng giỗ cha và mẹ.


Ông T 02 lô (01 lô là Thành viên trong gia đình và hưởng 01 lô của Chị (mất) và có nghĩa vụ Cúng giỗ chị). Các thành viên trong gia đình còn lại mỗi người được hưởng 01 lô. Thời gian vừa qua 2013 ông X đã bán tất cả đất đã chia và cả nhà ở mà cha mẹ để lại vào Thành phố Hồ Chí Minh nên không làm tròn trách nhiệm là trưởng nam và nghĩa vụ Cúng giỗ Cha Mẹ. Phần hai đất chưa chia còn lại: Được đường mở cắt qua có mặt tiền là 09 mét và một số đất vườn phía sau, ông X cho là mình là trưởng  nam lấy lô đất mặt tiền 5 mét x 20 mét làm nhà còn 4 mét còn lại làm đường cái vào vườn sau. Xin hỏi ý kiến của luật sư:

- Theo luật sư thì ông X lấy đất làm nhà vậy có đúng không?

- Ông X được hưởng theo trưởng Nam số đất đó không hay chia đều cho các thành viên trong gia đình?

- Nếu ông X sai và bất cần anh chị em trong gia đình thì chúng tôi phải làm sao?

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến công ty Luật Minh Gia của chúng tôi. Với câu hỏi của bạn công ty chúng tôi xin được tư vấn cho bạn như sau:
 

Thứ nhất, đối với câu hỏi: “Ông X được hưởng theo trưởng nam số đất đó không hay chia đều cho các thành viên trong gia đình”:

 

Trong trường hợp của bạn, cha, mẹ bạn đều mất vào năm 1991 mà không có di chúc để lại do đó theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 tại Điểm a Khoản 1 Điều 650, không có di chúc là một trong những trường hợp chia thừa kế theo pháp luật. Theo đó, di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật cho hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

 

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

 

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

 

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

 

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”.

Như vậy di sản thừa kế của bố mẹ bạn sẽ được chia đều cho 10 người con (là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất). Trường hợp trong 10 người con có người đã mất thì con của người đó sẽ được hưởng suất thừa kế đó.

 

Thứ hai, “Theo luật sư thì ông X lấy đất làm nhà vậy có đúng không?”

 

Kể từ thời điểm cha mẹ bạn mất đó chính là thời điểm mở thừa kế theo pháp luật. Những người thuộc diện thừa kế sẽ tiến hành chia thừa kế theo đúng quy định pháp luật, tại Điều 656 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:

 

“Điều 656. Họp mặt những người thừa kế

 

1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây:

 

a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;

 

b) Cách thức phân chia di sản.

 

2. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.”.

 

Và Điều 661 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời điểm chia thừa kế:

 

“Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.”.

Như vậy đối với trường hợp của bạn, những người thuộc diện thừa kế sẽ tiến hành họp mặt để phân chia di sản thừa kế do bố mẹ bạn để lại. Những người thuộc diện thừa kế có thể cùng thỏa thuận về cách thức phân chia di sản và có quyền từ chối nhận suất thừa kế của mình, tuy nhiên phải thực hiện đúng các thủ tục mà pháp luật quy định. Đối với phần đất chưa chia còn lại sẽ được chia cho những người thừa kế tại một thời điểm nhất định do những người thuộc diện thừa kế thỏa thuận chia cho tất cả những người được thừa kế và phải lập thành văn bản. Ông X trong trường hợp này, chưa được sự đồng ý thống nhất của các đồng thừa kế khác (là các anh chị em còn lại) về việc được thừa kế diện tích đất đó mà đã tự ý xây nhà lên đất là trái quy định pháp luật. Bởi ông X không phải chủ sở hữu bất động sản là diện tích đất trên. Đồng thời theo quy định của pháp luật đất đai ông X chưa có quyền sử dụng với mảnh đất này nên không có quyền được xây nhà ở trên đất.

 

Thứ ba, “Nếu ông X sai và bất cần anh chị em trong gia đình thì chúng tôi phải làm sao”

 

Tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:

 

Điều 623. Thời hiệu thừa kế

 

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

 

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

 

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

 

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”.

 

Như vậy, theo quy định trên thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Khi hết thời hạn trên thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.

 

Ngoài ra, căn cứ tại công văn số: 01/GĐ-TANDTC có quy định như sau:

 

“Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.”.

 

Theo thông tin bạn cung cấp, trường hợp bố mẹ bạn mất năm 1991. Căn cứ theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Do đó, hiện tại vẫn còn thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế.

 

Như vậy, trường hợp các đồng thừa kế không thỏa thuận được để giải quyết thì một trong các đồng thừa kế có thể làm đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận (huyện) yêu cầu phân chia di sản thừa kế. 

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn về vấn đề chia thừa kế theo pháp luật. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn thừa kế trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

Phòng Luật sư tư vấn - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo