Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Tư vấn về trường hợp người vay đã yêu cầu kết thúc hợp đồng nhưng chưa trả hết tiền.

Luật sư tư vấn về trường hợp xác định lãi suất khi người vay đã yêu cầu kết thúc hợp đồng từ năm 2016 nhưng chưa trả hết tiền. Nội dung tư vấn cụ thể như sau:

Nội dung tư vấn: Thân chào. Năm 2016 tôi có vay trả góp của công ty tài chính, số tiền là 20 triệu đồng, kỳ hạn đóng là 24 tháng, sau khi vay tôi đã đóng kỳ hạn đầu. Và đến kỳ hạn thứ hai thì tôi đã gọi tới công ty để xin tất toán hợp đồng, lúc đó nợ gốc tôi còn là hơn 19 triệu và được nhân viên thông báo phải đóng số tiền là 21,5 triệu thì hoàn tất hợp đồng. Nhưng khi tôi ra đóng thì tôi chỉ có 20 triệu đồng. Trong biên lai đóng tiền tôi có ghi tất toán hợp đồng. 

 

Khi Công ty tài chính nhận tiền, tôi được thông báo qua cuộc gọi là thiếu 1,5 triệu thì mới đủ, lúc đó tôi chưa có tiền tôi xin khi nào có tiền thì tôi đóng, công ty đã đồng ý, và sau đó cũng không có thông báo nào từ công ty hay gọi nhắc nhở tôi về việc tôi phải đóng đủ số tiền 1,5 triệu. Do hoàn cảnh khó khăn nên tôi cũng chưa có tiền đóng. Đến thời điểm hiện tại tôi được thông báo rằng số tiền tôi còn phải đóng là hơn 8 triệu giống như trong Hợp đồng 24 tháng. Như vậy tôi muốn hỏi tôi chỉ chấp nhận đóng số tiền được Nhân viên thông báo còn nợ lại lúc tôi gửi số tiền tất toán là 1,5 triệu và tiền lời của 1,5 triệu này từ thời điểm năm 2016 đến nay, bởi tôi cho rằng công ty đã nhận số tiền 20 triệu này trong khi nợ gốc của tôi chỉ còn lại là hơn 19 triệu mà trong biên lai đóng tiền tôi đã ghi tất toán hợp đồng. 

 

Công ty đã nhận tiền và không có thông báo nào cho tôi về việc giữ nguyên hợp đồng là 24 tháng hay hoàn lại tôi số tiền 20 triệu tôi tất toán và yêu cầu tôi đóng theo hợp đồng, khi tôi chưa đóng phạt, mà lại im ru đến giờ mới nói với tôi là giữ nguyên hợp đồng. Như vậy tôi có sai không? Và nếu như tôi không có đủ khả năng để trả giống như công ty yêu cầu số tiền là hơn 9 triệu thì tôi có vi phạm pháp luật và bị khởi tố không? Nếu như ra toà thì tôi có bị truy cứu ko? 

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Công ty Luật Minh Gia. Với vấn đề của bạn, chúng tôi xin đưa ra tư vấn như sau:

 

 

Khoản 2 Điều 470 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

 

“2. Đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và có lãi thì bên vay có quyền trả lại tài sản trước kỳ hạn, nhưng phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”

 

Theo thông tin bạn cung cấp, bạn có vay tiền là 20 triệu đồng, kỳ hạn đóng là 24 tháng, sau khi vay bạn đã đóng kỳ hạn đầu; đến kỳ hạn thứ hai thì xin thanh toán hợp đồng. Vào thời điểm đó, nợ gốc của bạn còn hơn 19 triệu và được nhân viên thông báo phải đóng số tiền là 21,5 triệu thì hoàn tất hợp đồng. Sau đó, bạn đã trả số tiền 20 triệu đồng, được cấp biên lai đã hoàn tất hợp đồng, đã thông báo với công ty tài chính sẽ trả nốt số tiền 1,5 triệu còn lại khi có điều kiện và được chấp thuận.

 

Từ năm 2016 đến nay, bạn không thực hiện thanh toán nốt số tiền còn lại và hiện tại, bạn được thông báo trả số tiền nợ còn lại là 8 triệu đồng như trong hợp đồng 24 tháng. Do đó, trường hợp của bạn cần phải xác định về việc hợp đồng vay tiền đã được bạn và Công ty tài chính thỏa thuận chấm dứt, tất toán hợp đồng hay chưa.

 

Nếu bạn chứng minh được giữa mình và công ty có thỏa thuận về việc kết thúc hợp đồng vay trước thời hạn theo yêu cầu của bạn, phía công ty đã chấp nhận yêu cầu này và đồng ý cho bạn thanh toán số tiền 1,5 triệu đồng khi bạn có điều kiện thì có căn cứ để xác định việc tất toán hợp đồng. Khi đó, bạn chỉ cần thanh toán số tiền còn lại là 1,5 triệu đồng như đã thỏa thuận trước đó.

 

Tuy nhiên, nếu yêu cầu về việc tất toán chỉ do bạn viết đề nghị lên tờ biên lai nộp tiền, chưa có sự xác nhận đồng ý của Công ty tài chính, đồng thời, bạn cũng chưa trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, nhân viên Công ty chỉ đồng ý việc trả nốt nợ sau chứ không nói sẽ tất toán, sau đó từ năm 2016 bạn cũng không thực hiện việc trả nốt nợ.....nên sẽ không đủ căn cứ để xác định hợp đồng đã tất toán.

 

Do đó, bạn có nghĩa vụ phải trả tiền cho Công ty tài chính theo quy định tại Khoản 4 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN:

 

“4. Khi đến hạn thanh toán mà khách hàng không trả hoặc trả không đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay theo thỏa thuận, thì khách hàng phải trả lãi tiền vay như sau:

 

a)Lãi trên nợ gốc theo lãi suất cho vay đã thỏa thuận tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả;

 

b)Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi theo quy định tại điểm a khoản này, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả;

 

c) Trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất áp dụng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.”

 

Như vậy, nếu bạn không thể chứng minh được thỏa thuận của mình với công ty về việc tất toán hợp đồng, bạn sẽ phải trả tiền lãi theo thỏa thuận của hợp đồng vay còn nợ là 1, 5 triệu đồng, số tiền lãi chậm trả với số tiền lãi 1,5 triệu đồng từ năm 2016 đến nay với mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng vay tiền nhưng không vượt quá 10%/năm.

 

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:

 

 “1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

 

a)Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

 

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

 

...”

 

Thì việc bạn không thanh toán hợp đồng vay từ năm 2018 đến nay do không có khả năng kinh tế, không thể trả được sẽ không đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định trên và bạn sẽ không bị khởi tố hình sự.

 

Trân trọng

 

Phòng Luật sư tư vấn Dân sự – Công ty Luật Minh Gia.

 

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo