Triệu Lan Thảo

Tư vấn về trường hợp cho vay tiền không có giấy nợ

Kính chào quý Luật sư, tôi tên là B tôi có cho bạn trai mình mượn tiền với số tiền là 8 triệu để anh ta trả nợ nhưng vì quen biết nhau nên tôi không có ghi giấy nợ. Tính đến nay đã là gần 4 năm, anh ta hứa trả nợ cho tôi nhưng mãi vẫn không thấy trả. Gọi điện không bắt máy, nhắn tin không trả lời. Hiện tại tôi chỉ có những tin nhắn qua lại để minh chứng rằng anh ta hứa sẽ trả cho tôi số tiền 8 tr đó

 

Vào năm 2013, qua quen biết anh ta có nói với tôi là nhờ người quen xin việc giúp tôi.Tôi đồng ý và đã đưa cho anh ta 60 triệu.Nhưng anh ta đã bòn rút 10 triệu đồng và chỉ đưa cho người chạy đó 50 triệu đồng.Tôi biết được sự việc này thông qua người bạn.Và cũng như trường hợp trước tôi không có viết giấy nợ gì hết L. Ông chạy việc cũng im hơi lặng tiếng và cũng đã cuỗm mất của tôi 50tr. Ông ta cứ hứa nhưng mãi không thấy hồi âm. Và giờ là im hơi lặng tiếng và còn nói lại là anh kia chưa hề đưa cho ông ta đồng nào. Hiện tại tôi đang rất băn khoăn là tôi không biết có thể khởi kiện và đòi lại số tiền kia từ anh ta và tay chạy việc kia không thưa quý Luật sư. Mong Quý Luật sư hãy giúp tôi. Giờ tôi đang rất bế tắc.Và nếu khởi kiện tôi có bao nhiêu phần trăm thắng vậy ạ. Mong nhận được sự hồi âm sớm từ Quý Luật sư.

 

Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến bộ phận tư vấn – Công ty Luật Minh Gia. Với câu hỏi của bạn chúng tôi xin trả lời như sau:

 

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định (Điều 119).Việc bạn trai bạn vay tiền bạn có thể là một hợp đồng vay tài sản bằng hình thức lời nói. Khi xác lập quan hệ vay tiền thì bên vay có nghĩa vụ trả nợ đầy đủ , đúng kỳ hạn. Do hiện tại bên kia không thực hiện nghĩa vụ cho nên  bạn có thể khởi kiện để đòi lại số tiền của mình.

 

Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự 2015: “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây:

 

a) Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

 

b) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.

 

Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;

 

c) Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.”

 

Trong trường hợp của bạn, bạn chỉ có những tin nhắn qua lại để minh chứng rằng anh ta hứa sẽ trả cho bạn số tiền 8 triệu, còn đối với số tiền 60 triệu thì bạn không nói rõ có chứng cứ gì hay không nên việc bạn có thể đòi lại số tiền 60 triệu là không thể khẳng định chắc chắn. Hơn nữa, người mà bạn trực tiếp giao dịch là bạn trai của bạn chứ không phải người chạy việc nên bạn chỉ có thể khởi kiện bạn trai của mình.

 

Ngoài ra, với trường hợp này bạn trai bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sảnnếu như bạn này đang có điều kiện thực hiện nghĩa vụ nhưng không thực hiện hoặc các hành vi khác cấu thành tội này theo quy định tại điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015. Cụ thể:

 

1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

 

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

 

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn về trường hợp cho vay tiền không có giấy nợ. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng!

CV. An Quỳnh – Công ty Luật Minh Gia.

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo