Vũ Thanh Thủy

Hỏi về kiện đòi chia thừa kế đối với tài sản đã được tặng cho

Bố mẹ tôi sinh được 5 người con 3 trai, 2 gái, trong đó 4 anh chị đã lập gia đình và sống riêng. Anh trai cả đã mất chỉ còn vợ và 2 con trai . vợ chồng tôi sống chung với bố mẹ chồng.

 

Bố chồng tôi bị mắc bệnh tai biến nặng. Năm 2012 mẹ tôi đã làm thủ tục để tặng toàn bộ tài sản là đất ở cho vợ chồng tôi, đến năm 2015 bố chồng tôi mất, trong năm 2015 vợ chồng tôi đã nhận được giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đứng tên vợ chồng tôi. Đến nay chị dâu cả ( chồng đã mất ) muốn kiện để đòi chia tài sản là đất ở đã được mẹ tôi làm thủ tục tặng vợ chồng tôi lúc bố tôi còn sống ! Vậy việc chị dâu tôi kiện có hợp lệ không? Và vợ chồng tôi có bị tước quyền sở hữu mảnh đất đang ở cùng mẹ tôi không?

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi tới Công ty Luật Minh Gia, với tình hình của bạn chúng tôi xin được tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, về việc mẹ chồng tặng cho bất động sản:

 

Theo thông tin bạn cung cấp thì năm 2012 mẹ chồng bạn có làm thủ tục tặng cho toàn bộ tài sản là đất ở cho vợ chồng bạn và hai vợ chồng bạn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2015. Tuy nhiên, trường hợp này cần phải xác định rõ tài sản mà mẹ chồng bạn dùng để tặng cho là tài sản chung của bố mẹ chồng bạn hay đây là tài sản riêng của mẹ chồng?

 

Nếu trường hợp đây được xác định là tài sản chung của bố mẹ chồng bạn và trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên cả hai người thì căn cứ theo Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:

 

Điều 28. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung

 

1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

 

2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.

 

3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.

 

Do đó, khi tiến hành thủ tục tặng cho đất ở cho vợ, chồng bạn mà tài sản tặng cho này được xác định là tài sản chung của bố mẹ chồng thì khi tặng cho cần phải được sự đồng ý của cả hai người. Tuy nhiên, theo thông tin bạn cung cấp thì bố chồng bạn bị tai biến nặng nhưng bạn không nói rõ tại thời điểm tặng cho đất bố chồng có còn năng lực hành vi dân sự hay không?  Trường hợp bố bạn bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự và đã có quyết định của Tòa án công nhận về vấn đề này thì mẹ chồng bạn sẽ đương nhiên trở thành người giám hộ, do vậy, mẹ bạn sẽ là người quản lý phần tài sản của bố chồng và chỉ được định đoạt tài sản này vì lợi ích của bố chồng bạn.

 

Như vậy, mẹ chồng bạn chỉ có quyền tặng cho một nửa phần đất trên cho vợ chồng ,phần tài sản của bố chồng sẽ do mẹ bạn quản lý khi bố chồng bạn mất không có di chúc thì đây sẽ được xác định là di sản dùng để chia thừa kế theo quy định của pháp luậtcụ thể theo Điều 676 Bộ luật dân sự 2005:

 

Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật

 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

 

Ngoài ra bạn còn phải xác định rõ xem anh trai chồng mất trước hay sau bố chồng của bạn, nếu anh trai chồng mất trước hoặc cùng thời điểm với bố thì con của người anh trai sẽ được hưởng phần di sản mà đáng lẽ người anh trai chồng được hưởng.

 

Khi anh trai mất sau bố chồng của bạn và cũng không để lại di chúc định đoạt số tài sản đó thì phần tài sản mà người này được hưởng sẽ chia cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người anh trai cả. 

 

Do đó, để có thể được đứng tên hợp pháp trên toàn bộ mảnh đất này thì khi tặng cho cần phải có sự đồng ý của những người có quyền và lợi ích bên trên.Trường hợp chỉ có mình mẹ chồng bạn đứng ra giao kết hợp đồng này thì hợp đồng  đã bị vô hiệu do chủ thể không đủ điều kiện để giao kết.

 

Ngược lại, đối với trường hợp đây là tài sản riêng của mẹ chồng bạn thì căn cứ theo Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định:

 

Điều 33. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng:

 

1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều này.

 

2. Vợ, chồng tự quản lý tài sản riêng; trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó.

 

3. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó.

 

4. Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng.

 

5. Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng.

 

Đối chiếu với quy định trên khi có căn cứ chứng minh mảnh đất là tài sản riêng của mẹ chồng thì việc mẹ chồng bạn tự đứng ra giao kết hợp đồng tặng cho này là hoàn toàn hợp pháp.

 

Thứ hai, về vấn đề khởi kiện của chị dâu bạn:

 

Trong trường hợp tài sản đó được xác định là tài sản chung của bố mẹ chồng mà khi mẹ chồng bạn tặng cho hai người, bố chồng không biết, không đồng ý về việc tặng cho đó hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng tặng cho trên sẽ bị vô hiệu theo quy định của pháp luật, năm 2015 bố chồng bạn mất mà không để lại di chúc mà thuộc vào các trường hợp như đã phân tích bên trên thì một nửa tài sản trong khối tài sản chung của bố mẹ chồng được chia thừa kế theo quy định của pháp luật. 

 

Như vậy, khi anh trai mất sau bố chồng bạn thì chị dâu bạn có quyền được hưởng một phần di sản của người chồng để lại . Nếu hai vợ chồng bạn muốn được sở hữu toàn bộ số mảnh đất này thì cần phải có sự đồng ý của những người thừa kế còn lại về vấn đề tặng cho phần của mình cho hai người.

 

Theo đó, chị dâu bạn hoàn toàn có quyền khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

 

Trân trọng.
CV tư vấn: Đào Thị Trà - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo