Nguyễn Ngọc Ánh

Tư vấn thừa kế tài sản của bố mẹ để lại./.

Tôi có một chuyện xin được luật sư tư vấn như sau:- Ông bà nội tôi sinh được 06 người con, 2 trai và 4 gái,ông nội mất năm 1997 bà nội mất 2004.Trước khi mất không để lại di chúc, nói di chúc miệng cho 1-2 người , không có người làm chứng.

 

Nội dung yêu cầu: Người con trai lớn không có trong hộ khẩu gia đình với ông bà nội  khoảng từ năm 1970(con cả) lập gia đình, sống ở tỉnh khác sinh được 4 người  3 gái 1 trai(Người cháu trai này được gọi là cháu đích tôn)Năm 1978 người con trai này mất sau đó đến 1991 thì vợ của người con trai này cũng mất. Người cháu đích tôn này về đòi phận chia tải sản.    Người con thứ 2 là con gái : lập gia đình theo chồng, không đòi phân chia tài sản    Người con thứ 3 là con trai : ở chung với ông bà nội, chăm sốc ông bà nội, thờ cúng tổ tiên, kiến thiết xây dựng nhà cửa.Người con trai này sinh được 3 người con gái.    Người con thứ 4 là con gái : lập gia đình theo chồng, không đòi phân chia tài sản    Người con thứ 5 là con gái : lập gia đình được 3 năm chồng mất, về ở lại với ông bà nội và không đi bước nữa.  đòi phân chia tài sản    Người con thứ 6 là con gái : lập gia đình theo chồng, không đòi phân chia tài sảnVậy luật sư cho tôi hỏi trong trường hợp ông bà tôi mất không để lại di chúc ( miếng đất nhà tôi đang sử dụng  ở  và thờ cúng tổ tiên đến hiện tại vẫn còn đứng tên ông bà)thì phân chia tài sản như thế nào?nếu chia đều cho 3 người, vậy phần kiến thiết xây dựng nhà của bố mẹ tôi có được tính riêng không?về việc phân chia tài sản này cần làm những thủ tục gì?

 

Trả lời: Cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi yêu cầu tới Công ty Luật Minh Gia! Yêu cầu của anh được tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, quy định của pháp luật về chia di sản thừa kế.

 

Bộ luật dân sự 1995 quy định:

 

Điều 639. Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế: "Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại".

 

Theo quy định của pháp luật, tại thời điểm ông, bà nội mất thì những người thừa kế đã tiếp nhận quyền, nghĩa vụ tài sản của ông, bà để lại. Tức, mặc dù chưa tiến hành thủ tục chia di sản thừa kế nhưng những người thừa kế theo quy định của pháp luật đã có quyền đối với phần di sản mà mình sẽ được hưởng.

 

Đối với vụ việc trên, ông bà nội mất không để lại di chúc (di chúc miệng trong trường hợp anh nêu không hợp pháp) nên căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 678 BLDS 1995, toàn bộ di sản của ông bà để lại sẽ được chia theo pháp luật. Theo đó, tất cả các con đẻ của ông bà (06 người) đều được hưởng một phần bằng nhau, không phân biệt con trai, con gái.

 

Điều 678. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

 

"1- Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

 

a) Không có di chúc;

....".

 

Điều 679. Người thừa kế theo pháp luật

 

"1- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

...

2- Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

 

3- Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản".

 

Tuy nhiên, xét riêng trường hợp người bác cả chết năm 1978 (chết trước ông bà nội). Theo phân tích trên, nếu bác cả còn sống tại thời điểm mở thừa kế thì người này sẽ được hưởng 1/6 di sản thừa kế của ông, bà. Căn cứ 680 BLDS 1995, do bác chết sớm nên các con của bác (tức cháu nội) có quyền hưởng phần di sản thừa kế của cha nếu cha còn sống sẽ được hưởng.

 

Vậy, tất cả các con của bác cả có quyền tham gia và hưởng một phần di sản thừa kế của ông bà để lại.

 

Điều 680. Thừa kế thế vị: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".

 

Tiếp nữa, anh có trình bày: bố mẹ của anh sống cùng ông bà nội và đã kiến thiết xây dựng công trình trên đất.

 

Điều 637 Bộ luật dân sự 1995 quy định về di sản thừa kế

 

"1- Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

 

2- Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy định tại Phần thứ năm của Bộ luật này".

 

Những người thừa kế chỉ có quyền tranh chấp phần di sản thừa kế của ông bà để lại. Di sản thừa kế chỉ bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác và những người thừa kế chỉ được hưởng một phần trong khối di sản trên.

 

Vậy, nếu có căn cứ chứng minh nhà ở hoặc công trình trên đất là do bố mẹ anh xây dựng thì phần tài sản trên thuộc về bố mẹ anh. Tuy nhiên, căn cứ Điều 6 BLTTDS 2014 thì đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình nên buộc bố, mẹ của anh phải thu thập chứng cứ chứng minh công sức đóng góp trong khối tài sản chung với ông, bà để đảm bảo quyền lợi của mình.

 

Thứ hai, về hướng chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật.

 

Nếu các bên không có tranh chấp, chủ động tự thỏa thuận chia di sản thừa kế thì có thể liên hệ tới tổ chức công chứng hoặc UBND xã để công chứng, chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế. Văn bản trên là căn cứ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất.

 

Điều 57 Luật công chứng 2014 quy định việc công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản

 

"1. Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì có quyền yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản.

 

Trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản, người được hưởng di sản có thể tặng cho toàn bộ hoặc một phần di sản mà mình được hưởng cho người thừa kế khác.

 

2. Trường hợp di sản là quyền sử dụng đất hoặc tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản của người để lại di sản đó.

 

Trường hợp thừa kế theo pháp luật, thì trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trường hợp thừa kế theo di chúc, trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có bản sao di chúc.

 

3. Công chứng viên phải kiểm tra để xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản và những người yêu cầu công chứng đúng là người được hưởng di sản; nếu thấy chưa rõ hoặc có căn cứ cho rằng việc để lại di sản và hưởng di sản là không đúng pháp luật thì từ chối yêu cầu công chứng hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định.

 

Tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản trước khi thực hiện việc công chứng.

 

4. Văn bản thỏa thuận phân chia di sản đã được công chứng là một trong các căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản cho người được hưởng di sản".

 

Ngược lại, nếu có tranh chấp thì các bên nộp đơn tới TAND quận, huyện nơi sinh sống để thụ lý và giải quyết theo thẩm quyền.

 

Điều 26 BLTTDS 2015 quy định những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: ".... 5. Tranh chấp về thừa kế tài sản".

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn thừa kế tài sản của bố mẹ để lại./.. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

Phòng tư vấn – Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo