Nguyễn Ngọc Ánh

Tư vấn hỗ trợ pháp luật về tai nạn giao thông

Kính gửi: Qúy Công ty Luật Minh Gia. Cho tôi xin hỏi, cụ thể sự việc như sau:Tôi có đứa cháu trai ruột, vào khoảng 20h30' ngày 04 tháng 11 năm 2015 , có điệu khiển xe moto cùng với một người bạn khác.


Nội dung yêu cầu:

Trên đường đi làm về bị va chạm với 1 chiếc xe  oto 4 chỗ đi cùng chiều, ngay sau khi va chạm xảy ra thì người điều khiển xe đó lái xe quay đầu bỏ chạy, không để xe lại hiện trường nữa.Sau đó lái xe về đồn công an khai báo, công an mới bắt lái xe đánh trở lại địa điểm va chạm.Lúc đó , hai cháu quá nặng đã được người dân đưa đi cấp cứuTrong thời gian điều trị thì sau 15 ngày bạn của cháu tôi được ra viện.Còn cháu tôi thì sau gần 4 tháng đã tử vong, gia đình em trai tôi phải chi phí bệnh viện vào 250 triệu đồng.Ở đây, Qúy luật sư cho tôi hỏi: Chiếc xe ô tô đó là của  ông A cho ông B mượn, ông B va quệt vào xe máy đã cướp đi tính mạng của cháu tôi. Trường hợp này ông A (chủ xe) có phải chịu trách nhiệm bồi thường dân sự và hình sự không?Hay chỉ ông mượn xe phải chịu trách nhiệm.Sự việc này sẽ được giải quyết như thế nàoXIn Qúy luật sư tư vấn giúp tôi.Tôi xin chân thành cảm ơn !Kính thư

Trả lời:

Cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi yêu cầu tới Công ty Luật Minh Gia! Yêu cầu của anh được tư vấn như sau:

Điều 202 BLHS quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:

" 1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
...".

Trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm các nguyên tắc điều khiển phương tiện được quy định trong Luật giao thông đường bộ 2008, gây hậu quả chết người thì có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Xét trong trường hợp trên, giữa anh A và anh B đang thực hiện hợp đồng mượn tài sản, anh B là người mượn nên có quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng. Liên quan tới trách nhiệm hình sự, anh B sẽ phải chịu trách nhiệm nếu hành vi của anh ta đủ dấu hiệu để CTTP theo quy định tại Điều 202 chúng tôi nêu trên.

Tiếp theo, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trường hợp trên được xác định là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Điều 623 BLDS 2005 quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như sau:
 
“ 1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
 
Khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 được hướng dẫn chi tiết tại điểm b mục 2 Phần III Nghị quyết 03//2006/ NQ – HĐTP như sau:

“ b) Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thỏa thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.

Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sỡ hữu phải bồi thường thiệt hại”.

Vậy, ai là người phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ có hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất: Ông B có đầy đủ tiêu chuẩn để có thể điều khiển được chiếc xe trên, ông B nhận được xe thông qua một hợp đồng mượn tài sản. Trường hợp này, khi ông B điều khiển xe gây hậu quả thì cá nhân ông này sẽ phải bồi thường thiệt hại.

Tuy nhiên, nếu có thỏa thuận giữa ông A và ông B về việc ông A sẽ chịu trách nhiệm, hoặc ông A chịu liên đới thì đây được xác định là thỏa thuận không trái luật và sẽ được chấp thuận.

Trường hợp thứ hai: Ông A cho ông B mượn chiếc xe trên không đúng quy định của pháp luât, ví dụ như ông B không đủ tiêu chuẩn để điều khiển xe (không có giấy phép lái xe, có nồng độ cồn trong người vượt ngưỡng cho phép,...) thì ông A sẽ là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Cuối cùng, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm theo quy định tại Điều 610 BLDS 2005 bao gồm:

“ a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”.


Cá nhân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại thực tế do hành vi vi phạm của mình gây ra. Ngoài ra, người này còn phải bồi thường một khoản bù đắp về tinh thần cho thân nhân của nạn nhân.

Lưu ý: Toàn bộ những thiệt hại trên đều phải được đương sự cung cấp cùng với tài liệu chứng minh, tức phải có những căn cứ chứng minh thiệt hại thực tế (hóa đơn, chứng tứ khám, cứu chữa, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết, khoản mai táng phí,...).

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn hỗ trợ pháp luật về tai nạn giao thông. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng


CV Nguyễn. N. Ánh – Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo