Hoàng Thị Kim Lý

Tư vấn giải quyết tranh chấp chia di sản thừa kế

Luật sư tư vấn miễn phí qua email trường hợp hỏi về các vấn đề tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, thời hiệu chia thừa kế và các vấn đề pháp lý liên quan. Nội dung hỏi và trả lời tư vấn như sau:


Câu hỏi tư vấn: Chào luật sư cho tôi hỏi: Bà tôi (bà cả) sinh được 3 người con gái sau đó chấp thuận để ông tôi đi lấy vợ (bà hai) nữa vì không có con trai, ông tôi đã lấy thêm vợ nữa. Đám cưới được tổ chức dưới sự tham gia của họ hàng làng xóm và bà cả, trước khi làm đám cưới bà hai đã có bầu rồi. Cưới xong được thời gian ngắn năm 1963 bà hai sinh ra bố tôi, được ít lâu sau bà hai hai mắc bệnh rồi qua đời sớm, sau đó ông tôi cũng qua đời (1981) bố tôi được bà cả nuôi nâng chăm sóc, học hành khôn lớn xin việc làm cho, 3 chị cũng. Năm 1987 bà cả lập gia đình cho bố tôi và sống cùng gia đình tôi vì 3 người con gái đã đi lấy chồng hết rồi, do bố tôi đi làm xa nên mẹ sống với bà cả đến năm 1991 có chính sách đo đạc lại vườn thửa do bà cả tuổi già sức yếu. Bố tôi lai đi làm xa nên bà cả đã sang tên thửa đất 1898m2 cho me tôi đứng chủ sử dụng và nộp thuế lâu dài dưới sự có mặt của cán bộ thôn xóm và địa chính xã chứng kiến,từ đó đến nay gia đình tôi nộp thuế và sử dựng. Năm 1998 3 người con gái của bà cả và bố tôi xây dựng ngôi nhà hơn 40m2 cho bà cả ở sinh hoạt và sau nay làm nơi thờ cúng. Năm 2003 gia đình tôi xây dựng ngôi nhà trong thửa đất đó để ở sinh hoạt đến nay. Khi bà cả còn sống đã từng nói phần đất và 2 ngôi nhà chia đều cho 2 anh em tôi vì gia đình bố tôi sinh được 2 người con trai (tôi và em tôi) nhưng chỉ nói bằng miệng cho một số người nghe về tâm nguyên của mình trước khi mất. Năm 2004 bà cả lâm bệnh và mất không để lại di chúc,mọi chuyện êm ấm giữa các chị em không có gì xẩy ra cho đến năm 2007, 3 người con gái của bà cả khởi kiện quyền thừa kế đất đai của cha mẹ để lại chết không di chúc và năm 2013 được tòa án huyện thụ lý vụ án đó và phân chia như sau:

 - Thửa đất 1898m2 trong đó ngôi nhà xây dựng chung giữa mấy chị em được giữ nguyên để thờ cúng có trách nhiệm và sử dụng chung. Ngôi nhà của gia đình tôi đang ở và sinh hoạt thì quyền sử dụng vẫn thuộc về gia đình tôi.

 - Ngoài diện tích đất ở của 2 ngôi nhà trên, số còn lại được chia làm phần như sau:

+ Luật pháp Việt Nam quy định 1 vợ 1 chồng bà hai không được pháp luật công nhân là vợ hợp pháp không được hưởng thừa kế, me tôi tuy là đứng chủ thửa đất đó những lại là con dâu nên cũng không được hưởng thưà kế.

+ 1 phần chia cho ông nội tôi những ông đã mất hơn 20 mươi năm pháp luật không có quyền được chia giữ nguyên,1 phần còn lại chia đều cho 3 người con gái và bố tôi và có 1 con đường để đi vào các lô đất đó. Mong công ty luật Minh gia tư vấn giúp tôi như vậy đã đúng chưa, nếu chưa tôi phải làm sao. Tôi xin chân thành cảm ơn công ty luật Minh Gia.

 

Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tư vấn đến công ty Luật Minh Gia. Với trường hợp của bạn, công ty tư vấn như sau:

 

Trường hợp của bạn có rất điểm còn nghi vấn, với thông tin bạn cung cấp còn quá ít để đánh giá vụ việc.

 

Trước tiên, về hôn nhân của ông với bà cả, bà hai, bạn không cung cấp rõ nơi cư trú của ông và bà. Ông bà là người miền Bắc hay người miền Nam. Do thời điểm kết hôn đã rất lâu, chính sách về hôn nhân của miền Bắc và miền Nam thời điểm trước 1987 có sự khác nhau. Dựa vào thông tin bạn cung cấp, ông kết hôn với bà cả và bà hai trước năm 1964. Nếu là người miền Nam, kết hôn ở miền Nam, quan hệ hôn nhân của bà cả và bà hai đều hợp pháp. Nếu là người miền Bắc và kết hôn tại miền Bắc thì quan hệ hôn nhân với bà cả là hợp pháp, quan hệ hôn nhân với bà hai là không hợp pháp. Từ vấn đề này dẫn đến tài sản phân chia tài sản sẽ khác nhau. Dựa vào kết quả của bản án sơ thẩm không công nhận quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa ông và bà hai nên công ty xác định ông bà bạn là người miền Bắc. Quan hệ hôn nhân với bà cả là quan hệ hợp pháp.

 

Thứ hai, về vấn đề phân chia tài sản.

 

Dựa vào thông tin bạn cung cấp, quyền sử dụng đối với 1898m2 được hình thành trong thời kỳ hôn nhân của ông và bà cả. Bạn không cung cấp rõ là đất đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay bất cứ giấy tờ gì chứng minh quyền sử dụng đất của ông và bà hay không nên để xét xem bản án sơ thẩm có hợp lý hay không phải xem xét vào trường hợp cụ thể.

 

+ Trường hợp thứ nhất: Trước đó, ông bà bạn có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có một trong các loại giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013:

 

a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

 

b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

 

c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;

 

d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

 

đ) Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;

 

e) Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;

 

g) Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.

 

Các giấy tờ khác theo quy định tại Điểm g khoản 1 Điều 100 Luật đất đai 2013 được hướng dẫn cụ thể tại Điều 18 nghị định 43/2014/NĐ-CP như sau:

 

1. Sổ mục kê đất, sổ kiến điền lập trước ngày 18 tháng 12 năm 1980.

 

2. Một trong các giấy tờ được lập trong quá trình thực hiện đăng ký ruộng đất theo Chỉ thị số 299-TTg ngày 10 tháng 11 năm 1980 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước do cơ quan nhà nước đang quản lý, bao gồm:

 

a) Biên bản xét duyệt của Hội đồng đăng ký ruộng đất cấp xã xác định người đang sử dụng đất là hợp pháp;

 

b) Bản tổng hợp các trường hợp sử dụng đất hợp pháp do Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Hội đồng đăng ký ruộng đất cấp xã hoặc cơ quan quản lý đất đai cấp huyện, cấp tỉnh lập;

 

c) Đơn xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất đối với trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này.

 

3. Dự án hoặc danh sách hoặc văn bản về việc di dân đi xây dựng khu kinh tế mới, di dân tái định cư được Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

 

4. Giấy tờ của nông trường, lâm trường quốc doanh về việc giao đất cho người lao động trong nông trường, lâm trường để làm nhà ở (nếu có).

 

5. Giấy tờ có nội dung về quyền sở hữu nhà ở, công trình; về việc xây dựng, sửa chữa nhà ở, công trình được Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở, xây dựng chứng nhận hoặc cho phép.

 

6. Giấy tờ tạm giao đất của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh; Đơn đề nghị được sử dụng đất được Ủy ban nhân dân cấp xã, hợp tác xã nông nghiệp phê duyệt, chấp thuận trước ngày 01 tháng 7 năm 1980 hoặc được Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh phê duyệt, chấp thuận.

 

7. Giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc giao đất cho cơ quan, tổ chức để bố trí đất cho cán bộ, công nhân viên tự làm nhà ở hoặc xây dựng nhà ở để phân (cấp) cho cán bộ, công nhân viên bằng vốn không thuộc ngân sách nhà nước hoặc do cán bộ, công nhân viên tự đóng góp xây dựng. Trường hợp xây dựng nhà ở bằng vốn ngân sách nhà nước thì phải bàn giao quỹ nhà ở đó cho cơ quan quản lý nhà ở của địa phương để quản lý, kinh doanh theo quy định của pháp luật.

 

8. Bản sao giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và các giấy tờ quy định tại các Khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều này có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý chuyên ngành cấp huyện, cấp tỉnh đối với trường hợp bản gốc giấy tờ này đã bị thất lạc và cơ quan nhà nước không còn lưu giữ hồ sơ quản lý việc cấp loại giấy tờ đó.

 

Đất hình thành trong thời kì hôn nhân của ông và bà cả, có một trong các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất trên, đất này được xác định là tài sản chung của ông và bà cả bạn. Ông và bà cả, mỗi người đều có quyền ngang nhau với ½ quyền sử dụng đất. Khi ông mất không để lại di chúc, phần tài sản thuộc sở hữu của ông sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ cả và 4 người con theo quy định tại Bộ luật dân sự. Việc bà bạn sang tên toàn bộ mảnh đất với diện tích 1898m2 cho con dâu vào năm 1991 là trái quy định của pháp luật.  Bà cả bạn chỉ có quyền đối với 3/5 quyền sử dụng đất trên [(1/2 + (1/2 : 5)] nên chỉ có quyền định đoạt với 3/5 phần đất. Muốn sang tên toàn bộ đất sang cho con dâu thì cần có sự đồng ý bằng văn bản của tất cả những người thuộc hàng thừa kế còn lại. Việc cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục cho mẹ bạn đứng tên toàn bộ diện tích khi chưa có sự đồng ý của những người thừa kế còn lại là trái quy định của pháp luật.

 

Phần tài sản của mẹ bạn đã được bà bạn tự nguyện sang tên (có thể coi đây là hình thức bà bạn tặng cho toàn bộ quyền sử dụng đất thuộc sở hữu của bà bạn cho mẹ bạn), mẹ bạn có quyền với phần tài sản này. 4 người con chỉ còn quyền đối với phần được hưởng tài sản từ ông. Tuy nhiên, ông đã mất từ năm 1981, tính đến thời điểm năm 2013, hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế phần tài sản của ông nên không thể chia thừa kế. Muốn chia phần tài sản này, các bên cần có cam kết phần tài sản này chưa chia, không có tranh chấp về hàng thừa kế để giải quyết tranh chấp theo hướng chia tài sản chung theo quy định tại 2.4 khoản 2 Mục I nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP. Tòa án tuyên bố và mẹ bạn được một phần diện tích đất nhà đang ở và có quyền sử dụng chung với ngôi nhà 40m2. Bạn không nói rõ phần gia đình bạn ở có diện tích là bao nhiêu m2, tổng diện tích nhận được có đảm bảo bằng 3/5 diện tích đất hay không? Nếu đủ diện tích trên thì quyền lợi của gia đình bạn vẫn được đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật.

 

Tuy nhiên, trong bản án của Tòa vẫn có điểm không hợp lý. Bạn có cung cấp Tòa có chia phần còn lại (chừa ra hai căn nhà) một phần cho ông bạn. Điểm này mâu thuẫn, chia thừa kế phải căn cứ vào thời điểm mở thừa kế. Người thừa kế là người thuộc hàng thừa kế còn sống hoặc đã hình thành thai tại thời điểm mở thừa kế, trừ trường hợp thừa kế thế vị. Ông bạn đã năm 1981, bà bạn mất năm 2004, thời điểm mở thừa kế của bà vào năm 2004, ông bạn không thể là người thừa kế của bà bạn. Tòa phân một phần cho ông và không chia phần này do hết thời hiệu chia di sản thừa kế, phần còn lại chia đều cho các con là không có căn cứ. Ông bạn không thể được hưởng thừa kế trong trường hợp này do bà bạn đã tự nguyện chuyển toàn bộ quyền sử dụng đất sang cho con dâu. Hoặc giả chứng minh được bà bạn chỉ chuyển một phần sang cho con dâu, ông bạn cũng không thể được hưởng phần tài sản theo hàng thừa kế, bởi ông mất trước thời điểm mở thừa kế của bà.

 

+ Trường hợp thứ hai: ông và bà bạn không có bất cứ giấy tờ gì chứng minh quyền sử dụng đất.

 

Trong trường hợp này, do đất không có giấy tờ, bà bạn để mẹ bạn kê khai đứng tên lần đầu trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu các con muốn chia thừa kế phần di sản của ông và bà thì cần phải chứng minh tài sản đó thuộc sở hữu của ông bà. Nếu không cung cấp bất được giấy tờ gì chứng minh thì phần tài sản đó thuộc sở hữu của vợ chồng người con của bà hai, những người còn lại không có quyền đòi tài sản.Tòa án phân chia như trên là không hợp lý.

 

Vì tình tiết vụ án phức tạp, thông tin bạn cung cấp chưa rõ ràng, chưa chi tiết nên rất khó để đánh giá toàn vụ việc. Để xem xét đúng vấn đề, trường hợp của bạn cần phải  xét hồ sơ vụ án cụ thể. Nếu còn vấn đề thăc mắc, bạn có thể liên lạc trực tiếp với công ty, gửi hồ sơ vụ án cụ thể để có phương án giải quyết.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn giải quyết tranh chấp chia di sản thừa kế. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

P. Luật sư tư vấn - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo