LS Trần Liên

Tư vấn chia di sản thừa kế là đất khi Nhà nước ra quyết định thu hồi đất ở

Bố mẹ tôi có một ngôi nhà nằm trong khu phố cổ từ năm 1959. Nay tôi tách khẩu ra khỏi đó. Khu nhà đó bị Nhà nước thu hồi. Hỏi tôi có quyền được chia phần bồi thường đó không?


Nội dung câu hỏi:

Chào các bạn. Tôi xin được nhờ các bạn giải đáp hộ một việc như sau :các cụ - cha mẹ chúng tôi khi mất đi không có di chúc gì về ngôi nhà các cụ trước đó đang ở cùng 2 gia đình các em tôi, tại quận Hoàn kiếm, Hà nội. Hai chú đó có hộ khẩu tại đó, còn tôi trước đây cũng có hộ khẩu tại đó, nhưng từ hơn 20 năm trước tôi đã chuyển hộ khẩu đi nơi khác.Căn nhà nêu trên là của các cụ cha mẹ tôi ở từ 1959 đến nay không có tranh chấp gì. Tuy nhiên căn nhà lại không có giấy tờ gì ngoài hóa đơn nộp tiền đất. Nhà ở phố cổ thuộc diện phải di dời trong 2017. Tôi không còn hộ khẩu tại đó, vậy tôi có cách nào để nhận được quyền lợi chính đáng của tôi về ngôi nhà đó khi thỏa thuận đề bù giải phóng mặt bằng, trong trường hợp tôi và 2 chú em tôi không thể tự thỏa thuận về quyền lợi của ngôi nhà ? Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi yêu cầu tứ vấn tới Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

-Thứ nhất, về điều kiện được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ở
 

Điều 79 Luật đất đai năm 2013 quy định Bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở

“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường như sau:

a) Trường hợp không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở; trường hợp không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở thì Nhà nước bồi thường bằng tiền;

b) Trường hợp còn đất ở, nhà ở trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì được xem xét để bồi thường bằng đất ở.

2. Hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở phải di chuyển chỗ ở mà không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác thì được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất.”

Điều 75 Luật đất đai năm 2013 quy định Điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng

“1.Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.”

Điều 101 Luật đất đai năm 2013 quy định Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất
“…
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.”

Theo quy định gia đình, cá nhân đang sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ổn định trước ngày 1/7/2004 và không vi phạm pháp luật đất đai, được UBND xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch của địa phương thì đủ điều kiện được bồi thường đất khi thu hồi đất ở.

Trường hợp của gia đình bạn, gia đình bạn đã sử dụng đất trước năm 1959 và nếu không vi phạm pháp luật về đất đai, được UBND xã/phường xác nhận đất không tranh chấp, phù hợp với quy hoạch tại địa phương thì khi  nhà nước thu hồi đất gia đình bạn sẽ được bồi thường về đất ở theo quy định tại điều 79 Luật đất đai năm 2013.

Theo nguyên tắc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất, những hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ở thì được bồi thường bằng nhà ở hoặc bằng số tiền tương ứng. Phần bồi thường đó sẽ là di sản thừa kế của ông bà để lại.

 

-Thứ hai, về chia di sản thừa kế

Nếu trong trường hợp mảnh đất và ngôi nhà đủ điều kiện được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất ở thì phần bồi thường đó ( đất ở/ nhà ở/ tiền) sẽ là di sản thừa kế.

Vì bố mẹ bạn mất không để lại di chúc nên di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật:

Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định Người thừa kế theo pháp luật

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”

Theo đó, những người nằm trong hàng thừa kế thứ nhất sẽ được hưởng những phần bằng nhau khi chia di sản thưà kế. Trường hợp của gia đình bạn, bạn cũng là một người nằm trong hàng thừa kế thứ nhất. Vậy nên sau khi có quyết định bồi thường khi đất ở bị thu hồi thì anh có quyền hưởng một phần bồi thường đó.

Hiện nay, bạn không đề cập tới việc ông bà mất vào thời điểm năm nào  nên chúng tôi không xác định được trường hợp này đã hết thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế hay chưa. Trong trường hợp hai người còn lại không muốn thỏa thuận với bạn về việc chia phần bồi thường đó thì bạn chỉ có thể thực hiện khởi kiện đòi quyền lợi của mình khi vẫn còn thời hiệu thừa kế. Cụ thể:

+ Trường hợp 1: Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Theo đó, thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Vậy nên nếu thời điểm ông bà mất tới nay chưa tới 10 năm thì bạn có thể khởi kiện ra tòa yêu cầu chi di sản thừa kế. Nếu đã quá 10 năm thì đã hết thời hiệu khởi kiện và bạn không thể khời kiện yêu cầu tòa chi di sản thừa kế (trừ trường hợp những đồng thừa kế tự thỏa thuận di sản thừa kế là tài sản chung và không có tranh chấp về quyền thừa kế).

+ Trường hợp 2: Hoặc từ năm 1/1/2017 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành có quy định như sau:

Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định Thời hiệu thừa kế
 
1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
 
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
 
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
…”
Theo đó, từ ngày 1/1/2017 áp dụng thời kiện khởi kiện chia di sản thừa kế là 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Như vậy, từ ngày 1/1/2017 thì những đồng thừa kế còn lại có thể làm đơn khởi kiện chia di sản thừa kế của người bố gửi tòa án nhân dân quận/huyện yêu cầu giải quyết để được chia phần di sản mà mình được hưởng theo quy định của pháp luật.

Lưu ý: Bạn có quyền thừa kế đối với di sản thừa kế, tuy nhiên nếu đã hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế mà các người anh trai không đồng ý lập biên bản thỏa thuận đây là tài sản chung và thừa nhận bạn là đồng thừa kế thì bạn không thể yêu cầu chia di sản thừa kế được. Trường hợp còn thời hiệu thừa kế nêu trên thì bạn có quyền  khởi kiện ra tóa án yêu cầu chia di sản thừa kế để đòi quyền lợi của mình.

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn chia di sản thừa kế là đất khi Nhà nước ra quyết định thu hồi đất ở . Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng


CV.Trần Liên – Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo