Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Tranh chấp về quyền thừa kế đối với mảnh đất đã được cấp GCNQSĐ

Chào luật sư, tôi có một thắc mắc về chia tài sản thừa kế kính mong luật sư tư vấn giúp: Bố mẹ tôi (đã mất) có 5 người con trai, 2 người con gái. Khi mất bố mẹ tôi không để di chúc lại, bố mẹ tôi có một mảnh đất. Mảnh đất này có bìa đỏ mang tên anh trai cả. Ngày xưa bố mẹ tôi vì không được học hành, không biết chữ vả lại khi đó chưa có chủ trương làm bìa đỏ nên bố mẹ tôi không làm.

 

Đến khi anh trai cả lớn lên (anh này ở với bố mẹ tôi ) anh đã bí mật làm bìa đỏ đứng tên anh mà không nói với bố mẹ cũng như anh em tôi. Khi bố mẹ tôi mất, vợ chồng anh cả vào ở với con trong Sài Gòn và có ý định bán toàn bộ đất đai trên. Tôi biết âm mưu nên đã lấy trộm bìa đỏ mang tên anh cả giấu đi. Vì không có bìa đỏ nên anh cả không bán được. Sau 2 năm không có sự việc gì xảy ra, anh cả được thông báo về làm lại bìa đỏ. Tôi và các anh em biết được nên đã làm đơn kiến nghị không cho làm bìa đỏ mang tên anh cả, và yêu cầu phải giải quyết theo pháp luật. Hiện tại mảnh đất đã dùng một nửa xây nhà thờ cho bố mẹ tôi. Vậy trong trường hợp này kính mong luật sư tư vấn sẽ xử lý thế nào? Chúng tôi muốn một nửa đất để xây nhà thờ cho bố mẹ, còn nửa còn lại thì chia cho 7 người con, như thế có đúng theo pháp luật hiện hành không?

 

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi yêu cầu tư vấn tới công ty Luật Minh Gia. Trường hợp của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:

 

Tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:

 

Điều 623. Thời hiệu thừa kế

 

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

 

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

 

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

 

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”.

 

Như vậy, theo quy định trên thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Khi hết thời hạn trên thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.

 

Ngoài ra, căn cứ tại công văn số: 01/GĐ-TANDTC có quy định như sau:

 

“Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.”.

 

Theo thông tin bạn cho biết, bố mẹ bạn có một mảnh đất. Khi bố mẹ bạn mất không để lại di chúc, người con trai cả đã tự ý xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên của mình. Do bạn không nêu rõ bố mẹ bạn mất năm bao nhiêu? Theo quy định nêu trên thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế được tính từ năm 1990. Mặt khác, tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Do đó, hiện tại vẫn còn thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế.

 

Để khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế thì bạn và các đồng thừa kế còn lại phải có căn cứ chứng minh mảnh đất trên trước khi đứng tên người anh cả là tài sản thuộc sở hữu của bố mẹ bạn. Trường hợp này, có thể đến Ủy ban nhân dân xã (phường) xin trích lục sơ đồ địa chính của mảnh đất. Từ đó, sẽ có căn cứ xác định được chủ sở hữu của mảnh đất qua các thời kì.

 

Trường hợp, xác định được thời điểm trước khi mảnh đất đứng tên người anh cả, chủ sở hữu mảnh đất là bố mẹ của bạn. Do vậy, trường hợp nếu không có giấy tờ chứng minh về việc bố mẹ bạn tặng cho mảnh đất cho người con trai cả thì việc cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh cả là không đúng quy định pháp luật. Vì vậy, gia đình bạn có thể yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Khi đó, mảnh đất trên được xác định là di sản thừa kế của bố mẹ bạn. Do khi mất bố mẹ bạn không để lại di chúc nên di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật cho hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

 

Như vậy, theo quy định trên thì mảnh đất trên sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015. Những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người này có quyền khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế nếu có căn cứ chứng minh mảnh đất trên có nguồn gốc do bố mẹ sử dụng ổn định, lâu dài trước người anh trai cả.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tranh chấp về quyền thừa kế đối với mảnh đất đã được cấp GCNQSĐ. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ luật sư tư vấn trực tuyến - Số 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

CV: Ngọc Anh – Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo