Vũ Thanh Thủy

Tranh chấp khi bố không cho thừa kế tài sản

Tôi xin trình bày và mong sự tư vấn từ luật sư. Ba mẹ tôi ly hôn khoảng năm 2000 từ khi 2 chị em tôi còn nhỏ, tòa xử cho mẹ tôi nuôi con, chu cấp hàng tháng là 150.000, ba tôi đã không thực hiện đúng.

 

Mẹ tôi đã kiện ông 1 lần và ông đã bù đắp cho 3 mẹ con tôi 30 triệu. Sau này ông có về ở với 3 mẹ con tôi được khoảng 7 năm. Ông tự ý bỏ đi khỏi nhà khi em tôi chưa đủ 18 tuổi. Không chu cấp tiếp. Lúc đó ông bán được đất nhờ mẹ tôi kí giấy đồng ý bán, nên ông đi. Bây giờ khi 2 chị em tôi đã đủ tuổi trưởng thành thì biết ông có ý định lập di chúc để lại tài sản cho cháu họ (con của em ba tôi), 2 chị em tôi là con ruột, không phải là không phụng dưỡng mà là ông ấy tự muốn sống 1 mình. Nếu trong di chúc không được thừa hưởng thì, chị em tôi có quyền kiện không? Vì tiền bán mảnh đất trước khi ông ấy đi xây nên căn nhà hiện tại là có liên quan đến mẹ tôi, mẹ tôi phải kí tên ô mới được phép bán. Nhưng lúc bán được cũng không cho mẹ tôi. Xin được sự giúp đỡ của luật sư ạ.

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi tới công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Theo thông tin bạn cung cấp thì bố mẹ bạn đã ly hôn năm 2000, lúc hai chị em bạn còn nhỏ. Tuy nhiên bạn cần phải xác định rõ lúc yêu cầu Tòa án ly hôn thì bố mẹ bạn có yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản hay không?

 

Ngoài ra, bố bạn có quay về ở với ba mẹ con bạn khoảng 7 năm, thì cũng cần phải làm rõ tại thời điểm này hai người có đi đăng ký kết hôn lại không? Nếu không thì coi là hai người sống chung như vợ chồng và không được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Mảnh đất là tài sản chung hay tài sản riêng thì cần phải xem xét các quy định của pháp luật tại thời điểm hình thành tài sản hoặc tại thời điểm giải quyết ly hôn (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000):

 

Thứ nhất, mảnh đất là tài sản chung

 

Căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 (vì thời :

 

Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng

 

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.

 

Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.

 

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

 

Như vậy, nếu mảnh đất trên được hình thành trong thời kỳ hôn nhân thì được xác định là tài sản chung của bố mẹ bạn. Khi ly hôn cần phải xác định rõ cả hai có yêu cầu giải quyết tài sản không? Nếu không yêu cầu giải quyết thì Tòa án sẽ không giải quyết về vấn đề trên. Do đó, khi bố mẹ bạn ly hôn không thỏa thuẫn rõ về vấn đề phân chia mảnh đất này thì việc bán số tài sản trên thì phải có sự đồng ý của cả hai người.

 

Thứ hai, mảnh đất trên là tài sản riêng

 

Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định về Tài sản riêng của vợ, chồng như sau:

 

1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.

 

Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.

 

2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.

 

Nếu mảnh đất này được hình thành trước thời kỳ hôn nhân, thì khi bán chỉ cần sự đồng ý của người chủ sở hữu mảnh đất này.

 

Về vấn đề để lại di sản thừa kế:

 

Theo như bạn trình bày thì sau khi lấy được chữ ký của mẹ bạn thì bố bạn không đưa lại cho phía ba mẹ con bạn. Hiện tại, bố bạn có để lại di chúc để lại tài sản cho cháu thì có hợp lệ?

 

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

 

Căn cứ theo Điều 626 Bộ luật dân sự 2015 quy định Quyền của người lập di chúc

 

Người lập di chúc có quyền sau đây:

 

1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

 

2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.

 

3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.

 

4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

 

5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

 

Như vậy, theo quy định của pháp luật thì bố bạn hoàn toàn có quyền tự định đoạt đối với phần di sản của bố bạn để lại tức là hoàn toàn có thể tự do ý chí chỉ định người hưởng di sản.

 

Về vấn đề hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:

 

Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

 

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

 

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

 

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

 

2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.

 

 Nếu hai chị em bạn hiện tại đã thành niên và có khả năng lao động thì không thuộc trường hợp để hưởng 2/3 suất thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

 

Trong trường hợp này nếu phía chị em bạn chứng minh được việc số tài sản hiện có cũng có sự đóng góp của mẹ bạn thì hai chị em cũng thể kiện đòi lại số tài sản tương ứng với phần đóng góp của mẹ mình.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.
CV tư vấn: Đào Thị Trà. - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo