Vũ Thanh Thủy

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông

Y điều khiển xe máy va chạm với xe ô tô do anh C, SN: 1990 đang điều khiển theo chiều ngược lại. Hậu quả Y tử vong tại chỗ, phương tiện bị hư hỏng. Nhận được tin báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện tổ chức việc khám nghiệm hiện trường và tử thi, VKSND huyện phân công Kiểm sát viên kiểm sát việc khám nghiệm. Ban đầu xác định do Y điều khiển xe máy vượt xe đi cùng chiều và lấn sang phần đường của xe ngược chiều.

 

Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi yêu cầu tư vấn cho công ty Luật Minh Gia chúng tôi, công ty xin được tư vấn về trường hợp này như sau:

 

 

 

Thứ nhất, về việc thu giữ phương tiện trong vụ tai nạn giao thông.

 

Đối với các hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tùy vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội mà sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định của Nghị định 46/2016/NĐ-CP  hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự được hiểu là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ và là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả về tính mạng, sức khỏe và tài sản cho người khác.

 

Trong tình huống mà bạn cung cấp, mặc dù nguyên nhân ban đầu được xác định là do Y điều khiển xe máy vượt xe đi cùng chiều và lấn sang phần đường của xe ngược chiều cho anh C điều khiển nên dẫn đến tai nạn và Y đã tử vong tại chỗ. Tuy nhiên, khi tiếp nhận vụ việc cơ quan điều tra sẽ xem xét hiện trường và tiến hành điều tra để kết luận bên nào có lỗi, nếu Y có lỗi mà có hậu quả làm chết người thì hành vi của Y cấu thành tội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự với điều khoản phù hợp theo Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

 

Điều 125 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính như sau:

 

“1. Việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính chỉ được áp dụng trong trường hợp thật cần thiết sau đây:

 

a) Để xác minh tình tiết mà nếu không tạm giữ thì không có căn cứ ra quyết định xử phạt. Trường hợp tạm giữ để định giá tang vật vi phạm hành chính làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt thì áp dụng quy định của khoản 3 Điều 60 của Luật này;

 

b) Để ngăn chặn ngay hành vi vi phạm hành chính mà nếu không tạm giữ thì sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội;

 

c) Để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt theo quy định tại khoản 6 Điều này.

 

2. Việc tạm giữ tang vật, phương tiện quy định tại khoản 1 Điều này phải được chấm dứt ngay sau khi xác minh được tình tiết làm căn cứ quyết định xử phạt, hành vi vi phạm không còn gây nguy hiểm cho xã hội hoặc quyết định xử phạt được thi hành…

 

8. Thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề là 7 ngày, kể từ ngày tạm giữ. Thời hạn tạm giữ có thể được kéo dài đối với những vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp, cần tiến hành xác minh nhưng tối đa không quá 30 ngày, kể từ ngày tạm giữ tang vật, giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

 

Đối với vụ việc thuộc trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 66 của Luật này mà cần có thêm thời gian để xác minh thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn việc tạm giữ; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày....

 

Như vậy, theo quy định tại Điều 125 Luật xử lý vi phạm hành chính vừa trích dẫn ở trên, thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề là 7 ngày, kể từ ngày tạm giữ. Thời hạn tạm giữ có thể được kéo dài đối với những vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp, cần tiến hành xác minh nhưng tối đa không quá 30 ngày, kể từ ngày tạm giữ tang vật, giấy phép, chứng chỉ hành nghề….”

 

Thứ hai, về việc bồi thường thiệt hại.

 

Thông thường trong một vụ tai nạn giao thông hậu quả xảy ra có thể là: thiệt hại tính mạng, sức khỏe, hư hỏng xe, tài sản khác cũng như các thiệt hại về mất sức lao động, thiệt hại về tinh thần... Những thiệt hại này sẽ do bên có lỗi chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (trừ trường hợp chủ sở hữu xe phải bồi thường thay cho người có lỗi). Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường (điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015). Như vậy, để xác định mức bồi thường của anh C thì phải căn cứ xem mức độ lỗi của anh C trong việc gây ra hậu quả của vụ tai nạn giao thông.

 

Theo quy định tại Điều 2, Mục II, Nghị Quyết 03/2006/NQ-HĐTP quy định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

 

- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

 

- Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.

 

Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.

 

Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm

 

- Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Khoản tiền được bồi thường được quy định cụ thể tại tiểu mục 2.4.II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trong! 

Chuyên viên Dương Xuân - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo