Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Thừa kế quyền sử dụng đất do mẹ để lại

Mẹ của tôi đã mất vào năm 2010. Mẹ là người mẹ đơn thân và có 02 người con là người chị Nguyễn Thị C và người em Nguyễn Thị D (tôi). Mẹ tôi mất và không để lại di ngôn hay di chúc.

 

Nội dung yêu cầu tư vấn: Chào Luật sư, tôi xin viết email này rất mong được sự tư vấn của luật sư. Mẹ của tôi đã mất vào năm 2010. Mẹ là người mẹ đơn thân và có 02 người con là người chị Nguyễn Thị C và người em Nguyễn Thị D (tôi). Mẹ tôi mất và không để lại di ngôn hay di chúc. Tài sản mẹ để lại là căn nhà cấp 4 trên mảnh đất diện tích 5m x 20m (tôi xin gọi là mảnh B). Hiện căn nhà này do Nguyễn N là con của chị Nguyễn Thị C cư trú. Giấy chứng nhận QSD đất do mẹ tôi đứng tên. Vào khoảng năm 1998 mẹ tôi có nói sau này sẽ chia mảnh đất làm 02 phần, phần bên nhỏ (mảnh A) cho tôi và phần bên lớn (mảnh B) cho cháu N (do cháu ở với tôi và mẹ từ nhỏ, chị C ở riêng nên không có tên trong hộ khẩu gia đình). Tuy nhiên không làm giấy cho tặng và mẹ chỉ nói như thế. Sau đó mẹ đã bán cho chị C mảnh A mà mẹ dự định cho tôi. Tôi có giúp mẹ thay mặt bà đứng ra nhận số tiền bán đất này, sau đó giữ hộ theo ý của mẹ để nuôi bà khi bà về già. Tôi xin hỏi với câu chuyện như thế thì mảnh B hiện nay mà mẹ để lại thì tôi có được chia quyền sở hữu hay không, sổ hộ khẩu gia đình hiện nay do tôi đứng tên chủ hộ, mặc dù tôi đã chuyển đến thường trú ở gia đình chồng. Giấy chứng nhận QSD đất sau khi mẹ mất thì tôi không biết ai là người đứng tên. Nếu cháu N (cháu ngoại) là người đứng tên trên giấy QSD đất thì như vậy có hợp pháp không, khi không có sự đồng ý của tôi (con gái). Tôi có đề nghị cháu cho tôi xem nhưng không được sự đồng ý từ cháu. Hiện nay tôi đang tranh chấp với cháu N về quyền lợi sở hữu hợp pháp đối với mảnh đất B. Kính mong Luật sư tư vấn giúp tôi, tôi xin trân trong và cám ơn.

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi yêu cầu tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của bạn chúng tôi xin đưa ra ý kiến tư vấn như sau:

 

Mẹ của chị đã mất vào năm 2010 và khi mẹ chị mất không để lại di ngôn hay di chúc nên tài sản mà mẹ chị để lại sẽ được chia thừa kế theo pháp luật theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 675 Bộ luật dân sự 2005:

 

“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

a) Không có di chúc;

b) Di chúc không hợp pháp;

c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản”

 

Vào khoảng năm 1998 mẹ chị có nói sau này sẽ chia mảnh đất làm 02 phần, phần bên nhỏ (mảnh A) cho tôi và phần bên lớn (mảnh B) cho cháu N (do cháu ở với tôi và mẹ từ nhỏ, chị C ở riêng nên không có tên trong hộ khẩu gia đình). Tuy nhiên không làm giấy cho tặng và mẹ chị chỉ nói như thế. Sau đó mẹ chị đã bán cho chị C mảnh A mà mẹ dự định cho chị. Như vậy một phần tài sản đã được định đoạt. Với phần di sản là mảnh đất B còn lại sẽ được chia theo pháp luật.

 

Tại  Điều 676 Bộ luật dân sự quy định về hàng thừa kế theo pháp luật như sau:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”

 

Theo quy định trên thì chị và chị C đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 676 thì những người cùng một hàng thừa kế sẽ được chia phần di sản bằng nhau, tức là mảnh đất B sẽ được chia đều cho cả 2 người. Còn nếu trong trường hợp chịvà chị C từ chối nhận di sản thì khi đó cháu N và những người khác thuộc hàng thừa kế thứ hai theo quy định trên được hưởng thừa kế. Như vậy, nếu mọi người không có thỏa thuận nào khác thì nếu cháu N đứng tên trên giấy chứng nhận QSD đất là trái với quy định của pháp luật. Để bảo vệ quyền lợi của mình bạn có thể khởi kiện dân sự về tranh chấp thừa kế tài sản tại Tòa án huyện nơi bạn đang sinh sống.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Thừa kế quyền sử dụng đất do mẹ để lại. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

CV Đinh Trần Thanh Xuân - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo