Luật sư Phùng Gái

Thủ tục thu hồi GCNQSD đất và phân chia tài sản chung của các thừa kế thế nào?

Cho tôi hỏi về thu hồi đất và phân chia lại thừa kế như sau: Ông ngoại tôi là N Tr. 2. Bà ngoại tôi là Đ N. Bà N có hai đời chồng, đời chồng trước là ông N T. Sau khi ông T mất đi, bà N đi bước nữa lấy ông N Tr. Hai ông bà sinh được 3 người con, lần lượt là: 1. Con gái lớn: Ng M,Con gái thứ: Ng MT, Con gái út: N Th.Khoảng thời gian này, ông Tr cùng con gái lớn N M sinh sống trên mảnh đất 270 m2 do các cụ đẻ ra ông Tr để lại.

 

Trước khi ông Tr mất đi, ông Tr là chủ sở hữu của mảnh đất có diện tích 270 m2. Năm 1969, ông Tr mất đi, tuy nhiên không để lại bất kỳ giấy tờ gì liên quan đến việc thừa kế hay cho, tặng mảnh đất trên. Sau thời điểm này, bà Nh là người đứng ra trông coi, trồng cây cối trên mảnh đất trên. Khoảng năm 1983, do mâu thuẫn với bên nhà chồng, nên người con thứ hai Ng MT có xin bà Nh, cùng chị lớn Ng M là được đến cất nóc nhà cấp 4 trên mảnh đất 270m2 trên để ở, đồng thời trông coi đất cũng như lo hương hỏa cho ông bà. Thuận tình là do nhà chồng khó khăn nên bà Nh và chị Ng M đồng ý cho bà Ng MT đến ở và có trách nhiệm trông coi mảnh đất trên. (Toàn bộ câu chuyện này đều là nói miệng với nhau, không có ghi nhận bằng bất kỳ văn bản, giấy tờ gì).

Đến năm 1989, bà Nh do ốm đau, mất đi. Về mặt công khai trong gia đình trước khi mất, bà Nh không có để lại bất kỳ văn bản, giấy tờ hợp lệ, hợp pháp nào hoặc bằng miệng về chuyện để lại thừa kế mảnh đất 270m2 cho 3 người con gái. Tuy nhiên, đến năm 1995, bà Ng MT bỗng dưng có lên nhà bà Ng M, đem ra một mảnh giấy mà trên đó thể hiện là được bà Nh có di chúc để lại mảnh đất 270m2 cho bà Ng MT và bà MT đề nghị chị lớn là bà Ng M ký xác nhận vào tờ giấy trên. Tuy nhiên, bà M đã không đồng ý và không ký xác nhận vào tờ giấy trên. Đến năm 2000, khi con cái của bà Ng M đã lớn và đã xây dựng gia đình riêng. Xuất phát từ nhu cầu về chỗ ở, bà M có xuống nói chuyện với bà MT là cần phân chia mảnh đất trên chia đều cho cả 3 chị em (bà M, bà MT, bà Th). Nhưng bà MT đã dứt khoát không đồng ý chia cho bất kỳ ai. Đến năm 2003, không hiểu lý do tại sao, bà MT đã hoàn thiện được hồ sơ và được UBND Huyện cấp cho Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đứng tên hộ gia đình bà Ng MT đối với mảnh đất 270m2 trên.

Trên đây là nội dung tóm tắt sự việc tranh chấp đất đai của gia đình tôi. Tôi là con trai của bà Ng M. Tôi kính đề nghị Quý ban xem xét, tư vấn cho tôi về 2 việc.

1. Thủ tục để yêu cầu UBND Huyện tra soát lại hồ sơ cấp sổ đỏ cho bà MT, đồng thời thu hồi lại sổ đỏ đối với mảnh đất 270m2.

2. Thủ tục phân chia tài sản chung là mảnh đất 270m2. Tôi xin chân thành cảm ơn!

 

Trả lời tư vấn:

 

Chào bạn, Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Theo thông tin bạn cung cấp 270m2 đất của ông Tr và bà N sử dụng là do bố đẻ ông Tr để lại nhưng không nói rõ tài sản này là cho riêng ông Tr hay cho hai vợ chồng ông Tr và N nên sẽ khó trong việc xác định phân chia di sản thừa kế nên trường hợp này có thể xảy ra theo hai hướng như sau:

 

+Trường hợp, tài sản của riêng ông Tr thì tại thời điểm chết 1969 không để lại di chúc thì sẽ được chia theo pháp luật cho những đối tượng được quyền hưởng( bà N và ba người con) theo quy định của Bộ luật dân sự 2005:

 

Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật

 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

 

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

 

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

 

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

 

Đồng thời, năm 1989 bà N mất đến năm 1995 bà Ng MT đưa ra bản di chúc của bà N thì đương nhiên trong trường hợp này bà N không có toàn quyền định đoạt toàn bộ 270m2 đất nên việc bản di chúc kia sẽ không có giá trị gì cả và sẽ được xác định là vô hiệu.

 

+Trường hợp, 270m2 đất là tài sản chung của hai vợ chồng ông Tr và bà N thì tính thời điểm bà N mất thì bản di chúc kia sẽ phải xem lại giá trị pháp lý. Nếu di chúc là có thật và hợp pháp thì bản di chúc đó cũng sẽ bị vô hiệu một phần đối với phần di sản thuộc sở hữu ông Tr, Nếu bản di chúc là do giả tạo, không có công chứng, chứng thực, không có người làm chứng thì đương nhiên bản di chúc đó vô hiệu. Toàn bộ 270m2 đất sẽ được chia theo pháp luật cho người thừa kế theo pháp luật ( Điều 676 Bộ luật này).

 

-Thứ hai, liên quan tới việc cấp sổ đỏ.

 

Thời điểm 2003 bà MT hoàn tất được thủ tục để đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Để xác định việc cấp sổ Đỏ có hợp pháp không thì gia đình bạn sẽ phải khiếu nại tới Uỷ ban nhân dân xã về việc thời điểm cấp sổ đỏ cho bà MT có đủ cơ sở hay không. Trường hợp, không đủ cơ sở cũng như không có giấy tờ xác nhận 270m2 đất trên thuộc quyền sở hữu bà MT mà Uỷ ban xã vẫn cấp cho thì yêu cầu ủy ban xã hủy giấy chứng nhận đã cấp trước đó cho bà MT.

 

-Thứ ba, liên quan tới việc chia lại di sản thừa kế

 

Theo quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế thì thời hiệu khởi kiện là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Trường hợp gia đình bạn từ 1967 tới nay thì đã hết thời hiệu khởi kiện để yêu chia thừa kế. Cụ thể:

 

Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

 

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP thì trong trường hợp các đồng thừa kế thỏa thuận xác nhận là di sản do người chết để lại chưa chia và không xảy ra tranh chấp thì sẽ được chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Sau khi chuyển thành tài sản chung thì các bên tự thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản, trong trường hợp mà không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án chia theo pháp luật về tài sản chung. Cụ thể:

 

2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

 

A. Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

 

A.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

 

A.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

 

B. Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... Thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Thủ tục thu hồi GCNQSD đất và phân chia tài sản chung của các thừa kế thế nào?. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

Chuyên viên  P.Gái - Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo