Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Thỏa thuận trả lại tiền nhưng sau đó không thực hiện theo thỏa thuận thì giải quyết thế nào?

Chào luật sư! Tôi xin nhờ luật sư tư vấn cho trường hợp của vợ chồng tôi như sau: Vợ tôi đang là giáo viên dạy hợp đồng ở trường cấp 2, vì mong muốn được biên chế nên đã vội tin người mà đưa tiền nhờ người chạy việc giúp từ năm 2015, đến nay công việc thì không được mà vợ chồng tôi mới lấy lại chưa được một nửa số tiền đưa cho người ta.

 

Tôi xin nhờ luật sư tư vấn cho tôi, cụ thể như sau: Tôi và chồng chị H cùng cơ quan, vợ chồng chị H có nói với tôi là chị H có khả năng giúp vợ tôi đỗ biên chế, và nói giá là 230 triệu đồng. Vợ chồng tôi tin và đã đi vay mượn tiền để đưa cho chị H làm 02 lần. Một lần 150 triệu, vợ tôi có yêu cầu viết giấy thì chị H nói không phải chị ấy làm mà nhờ một người tên L làm nên hôm sau chị H có đưa tờ giấy viết tay của chị L đưa cho vợ chồng tôi. Lần thứ 2 vợ tôi đưa 80 triệu mà không viết giấy. Sau đó, vợ tôi được đưa đi ôn mấy buổi trước khi thi. Vợ tôi kỳ thi đó không đỗ, vợ chồng tôi có gọi chị H và chị L thì hai chị này đều trả lời là sẽ hoàn trả lại tiền. Rồi đến khoảng tháng 4 năm 2016 mới trả tôi được 30 triệu, lần tiếp theo trả được 10 triệu. Tôi hỏi chị H thì chị H cùng vợ chồng tôi đến nhà chị L đòi tiền. Do chị L không trả nên tôi yêu cầu viết giấy cầm tiền của vợ chồng tôi. Lúc đó, chị L đã viết tờ giấy có nhận tiền của vợ chồng tôi số tiền còn lại là 190 triệu đồng và hứa là sẽ trả nốt. Nhưng sau đó mỗi lần chỉ trả mỗi lần rất ít, có lần 10 triệu, có lần ít hơn. Đến tháng 5/2017. Chị L vẫn còn cầm của vợ chồng tôi 120 triệu. Vì gia đình khó khăn, vợ chồng tôi lại nuôi 2 con nhỏ. Tiền đi vay lâu không trả được nên vợ chồng tôi làm đơn lên công an thị trấn nơi chị L đang ở. Lúc đó vợ chồng tôi làm đơn kiện chị L tội lừa đảo. Đến công an thị trấn  tư vấn cho tôi là sẽ gọi chị L và chị H đến làm việc. Công an thị trấn  có tư vấn cho vợ chồng tôi là kiện chị L tội lừa đảo là sai. Và yêu cầu viết đơn rút đơn tố cáo chị L lại. Công an thị trấn tư vấn và vợ chồng tôi đã chấp nhận giải quyết sự việc như sau:  Ngày 12/7/2017 công an thị trấn  yêu cầu chị L trả vợ chồng tôi 20 triệu, sau đó các tháng tiếp theo mỗi tháng vào ngày 12 hàng tháng trả vợ chồng tôi 10 triệu cho đến hết. Nhưng tại công an thị trấn  có mặt vợ chồng chị L, chị H và tôi (vợ tôi mới sinh nên không đi được), chồng chị L nói chỉ nhận từ chị H số tiền 200 triệu, chị H nói đưa cả 230 triệu cho chị L nhưng khấu trừ vào suất người khác (chị L nhận từ chị H tiền của mấy người nữa). Do có sự đôi co nên công an thị trấn hòa giải bằng cách mỗi bên chịu thiệt 10 triệu, có nghĩa tôi sẽ nhận về 110 triệu (chịu thiệt 10 triệu), chị H trả tôi 10 triệu, còn lại 100 triệu chị L phải trả cho tôi. Nhưng hôm đó chị L chỉ trả tôi 15 triệu nên công an thì trấn làm biên bản là tháng 6/2017 chị L trả vợ chồng tôi 15 triệu, 12/7/2017 trả 15 triệu, các tháng tiếp theo mỗi tháng trả 10 triệu. Tất cả các bên đồng ý và ký vào biên bản có sự chứng kiến của công an thị trấn , Giấy tờ công an thị trấn đã cầm và đưa hết vào hồ sơ. Nhưng đến nay đã quá hẹn tôi có gọi điện nhiều lần nhưng chị L không bắt máy. Vậy tôi xin được tư vấn sự việc của tôi làm có đúng trình tự pháp luật không và nếu chị L không trả tôi nốt số tiền còn lại thì tôi phải làm thế nào để đảm bảo quyền lợi của vợ chồng tôi. Tôi được biết chị L còn cầm tiền của nhiều người để chạy việc, và trên chị L còn người khác cầm rất nhiều tiền của chị L để chạy việc nhưng đã bỏ chốn. Gia đình tôi đang rất khó khăn cần lấy lại số tiền đó. Mong luật sư tư vấn giúp vợ chồng tôi.Tôi xin chân thành cám ơn.

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi tới Luật Minh Gia, với vấn đề của bạn chúng tôi xin đưa ra giải pháp như sau:

 

Theo như thông tin bạn cung cấp, bạn đã đưa tiền nhờ chị H xin việc cho vợ bạn nhưng vợ bạn vẫn không có việc. Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm hành vi chạy việc, vì vậy giao dịch dân sự giữa vợ chồng bạn và chị H, chị L là giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. Khi giao dịch dân sự vô hiệu, các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, chị H và chị L phải có nghĩa vụ trả lại số tiền 230 triệu đã nhận của gia đình bạn. Nếu trong trường hợp, chị L ngay từ đầu đã không có khả năng xin việc cho bạn nhưng vẫn hứa hẹn, lừa dối để gia đình bạn đưa tiền thì mới có thể truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Còn trong trường hợp này, sau khi không xin được việc cho vợ bạn, chị L có nói sẽ trả lại tiền và chị L cũng đã trả 110 triệu, chỉ còn số tiền 120 triệu là chưa trả được vì vậy việc bạn khởi kiện chị L tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là không phù hợp.

 

Theo thông tin bạn cung cấp, chị H nói có khả năng xin việc được cho vợ bạn, sau khi đưa tiền, vợ bạn đi thi nhưng không đỗ, chị L cũng đã trả cho gia đình bạn số tiền 110 triệu, còn nợ lại 120 triệu. Sau khi ra cơ quan công an, hai bên đã thỏa thuận và đồng ý về số tiền và thời gian trả tiền, tuy nhiên đã quá hẹn mà chị L không trả tiền cho gia đình bạn theo như biên bản thỏa thuận tại cơ quan công an. Trong trường hợp này, nếu như chị L không trả lại tiền theo những gì đã thỏa thuận mặc dù đã quá hạn thì bạn có thể làm đơn gửi đến Tòa án nơi chị L cư trú hoặc nơi bạn cư trú, trong đó trình bày rõ vấn đề chị L không thực hiện trả tiền theo thỏa thuận. Khi cơ quan có thẩm quyền có căn cứ cho rằng chị L không tự nguyện thực hiện việc trả tiền thì sẽ tiến hành cưỡng chế thi hành án để buộc chị L trả khoản tiền đó cho bạn. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án có thể được áp dụng được quy định tại Điều 74 Luật thi hành án dân sự như sau:

 

Điều 74 Luật thi hành án Dân sự 2008 quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành án.

 

“1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án.

 

2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

 

3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ.

 

4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.

 

5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.

 

6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định.”

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng !
CV tư vấn: Nguyễn Nhàn - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo