Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Tặng cho đất đai bằng giấy viết tay có hợp pháp không?

Hoạt động chuyển quyền sử dụng đất theo hình thức tặng cho hiện nay diễn ra ngày càng nhiều. Do đất đai là một loại tài sản có giá trị lớn và cũng là một loại tài sản đặc biệt hơn so với các loại tài sản khác nên khi thực hiện thủ tục chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất các bên phải đáp ứng được các điều kiện cụ thể theo quy định của pháp luật.

1. Luật sư tư vấn thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất

Đất đai là tài sản thường xuyên xảy ra tranh chấp trong quá trình chuyển nhượng do đó pháp luật quy định rất rõ ràng về những giấy tờ, trình tự, thủ tục cần thiết để tiến hành việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cụ thể khi thực hiện thủ tục chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất thì các bên phải lập thành hợp đồng và có công chứng chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền.

Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp khi thực hiện các thủ tục chuyển nhượng, tặng cho các bên không đáp ứng được điều kiện, thủ tục chuyển nhượng theo quy định, vẫn thực hiện chuyển nhượng, tặng cho bằng hình thức viết tay. Từ đó gây nên nhiều khó khăn cho các bên khi bên nhận tặng cho thực hiện thủ tục sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Nếu bạn đang gặp phải trường hợp vướng mắc liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất bằng giấy viết tay mà chưa tìm được căn cứ pháp luật hoặc hướng giải quyết, bạn hãy liên hệ với công ty Luật Minh Gia qua hình thức gửi Email tư vấn hoặc liên hệ tới Tổng đài 1900.6169 để chúng tôi hướng dẫn, giải đáp và đưa ra phương án giải quyết cho bạn.

2. Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất bằng giấy viết tay

Nội dung tư vấn: Nhờ Luật sư tư vấn một số vấn đề về thừa kế như sau: Đất chung của ông bà, trước khi bà chết có cho cháu ngoại mảnh đất ngang 4,2m, dài 14,80m vào năm 2006 có viết giấy tay có chữ ký của ông bà và trưởng ấp ký. vây mảnh đất có hợp pháp không a? và nếu hợp pháp có được tách thửa không? Bà tôi mất trước sau đó ông tôi có viết di chúc để lại toàn bộ diện tích mảnh đất (có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp 2011) theo giấy Chứng nhận cho con trai không nhắc đến người con còn lại có chứng thực của UBND xã không có chữ ký của các con. Nếu đưa ra Tòa án pháp luật chia như thế nào?mong Luật sư tư vấn giúp đỡ. Trân trọng cảm ơn. Chúc Luật sư Minh Gia ngày càng thịnh vượng phát đạt.

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến công ty Luật Minh Gia. Với vấn đề của bạn, công ty xin tư vấn như sau:

Thứ nhất, về mảnh đất bà cho cháu ngoại năm 2006.

Theo như bạn đề cập, đất này là đất chung của ông bà trước khi bà chết có cho cháu ngoại mảnh đất rộng 4,2m, dài 14,8m và khi cho đất, ông bà có viết giấy, có chữ ký của trưởng ấp. Như vậy, có thể xác định đây là trường hợp tặng cho tài sản, cụ thể là tặng cho bất động sản.

Theo khoản 1 điều 459 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Tặng cho bất động sản như sau:

“1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật.

2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.”

Trong trường hợp của bạn, nếu sau khi ông bà viết giấy cho đất, trưởng ấp ký và giấy tặng cho tài sản này được đem đi công chứng cũng như mảnh đất này được đăng ký quyền sở hữu dưới tên người cháu thì hợp đồng tặng cho mảnh đất này sẽ có hiệu lực từ thời điểm đăng ký.

Trong trường hợp hình thức hợp đồng tặng cho không đúng theo quy định (không được công chứng/chứng thực) thì theo điều 129 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:

"1.Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực."

Trong trường hợp của bạn, nếu như mảnh đất do ông bà tặng cho người cháu đã được lập thành văn bản viết tay, có người làm chứng nhưng chưa thực hiện thủ tục công chứng/chứng thực và sang tên, tuy nhiên, trên thực tế mảnh đất đã được chuyển giao cho người cháu ngoại và sử dụng ổn định từ năm 2006 đến nay thì có căn cứ công nhận hiệu lực của giao dịch tặng cho theo quy định tại Điều 129 nêu trên.

Thứ hai, về việc tách thửa đất.

Theo quy định tại điều 144 và 145 Luật đất đai 2013, diện tích tối thiểu để được tách thửa do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với điều kiện, tập quán địa phương và quy hoạch sử dụng đất địa phương. Do thông tin bạn cung cấp không đầy đủ nên chúng tôi chưa thể khẳng định được diện tích mảnh đất ngang 4,2m, dài 14,8m có đủ điều kiện tách thửa không.

Do đó, bạn cần xem xét điều kiện tách thửa tại địa phương mình để xác định xem đã đủ điều kiện được tách chưa.

Thứ ba, về di chúc của ông để lại toàn bộ mảnh đất khác cho một người con.

Theo như thông tin bạn cung cấp, ông bạn đã di chúc để lại toàn bộ mảnh đất có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 2011 cho một người con và đã được chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã mà không có chữ ký của các con.

Tại Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: 

"Điều 624. Di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết".

Như vậy, nếu như mảnh đất là tài sản riêng của người ông, thì người ông có quyền viết di chúc định đoạt tài sản của mình sau khi chết, không phụ thuộc vào ý chí của người khác, cũng không cần phải sự đồng ý hay chữ ký của những người khác. Việc phân chia di sản thừa kế sẽ được thực hiện theo nội dung di chúc.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo