Nguyễn Ngọc Ánh

Quyền sử dụng đất là tài sản chung của hộ gia đình

Nội dung yêu cầu: Luật sư cho hỏi về quyền sử dụng đất là tài sản chung hộ gia đình như sau: Ông bà nội tôi có 3 người con .năm 1982 cô út tôi cắt hộ khẩu chuyển theo chồng và cha tôi đi công an nhập hộ khẩu tập thể, đến năm 1983 cô thứ 1 tôi cũng cắt hộ khẩu chuyển ra nhà riêng. Vậy là trong hộ khẩu của ông bà nội tôi chỉ còn lại 3 thành viên đó là ông bà nội tôi và con trai của cô thứ 1 của tôi. Nay ông bà nội tôi đã mất năm 2007 là ông nội, bà nội mất năm 2015.

 

Các người con của ông bà nội tôi mới quyết định đồi chia quyền thừa kế trên mãnh đất của ông bà để lại. Nhưng đến ngày hôm nay thì khi lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra thì mới biết là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này thuộc hộ Trần Văn A ( tức ông nội tôi) và ông nội tôi đã cho cháu C là con của người cô thứ 1 của tôi hết 150m2. (năm 2004) Như vậy phần còn lại phần đất còn lại là 586m2. Và phần đất này được chia 3 phần cho hộ của ông nội tôi tức là ông nội tôi- bà nội tôi – và người cháu ngoại. Và các người con của ông bà nội tôi được hưởng 1 phân/3 trông số 2 phần đất của ông bà nội tôi. Đất này là đất tập đoàn cấp cho ông nội tôi đã sinh sống trên mãnh đất này từ trước năm 1977 nhưng đến năm 1997 mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại ghi là “ Hộ :ông Trần Văn A” tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong hộ chỉ còn có 3 người như vậy có đúng quy định không ạ. Như vậy cha tôi và 2 người cô phải làm gì để đòi lại quyền lợi hợp pháp của mình. người con của cô thứ 1 tôi có được công nhận quyền sử dụng đất bằng với ông bà nội tôi hay không. hay đó chỉ là thuộc quyền sở hữu của ông bà nội tôi Xin cảm ơn Anh chị Luật sư.

 

Trả lời: Cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi yêu cầu tới Công ty Luật Minh Gia! Yêu cầu của anh được tư vấn như sau:

 

Luật đất đai 2013 quy định:

 

Điều 3. Giải thích từ ngữ

 

“Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

 

...29. Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”.

 

Bộ luật dân sự 2015 quy định:

 

“ Điều 212. Sở hữu chung của các thành viên gia đình

 

1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

 

2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.

 

Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.”

 

Theo quy định của pháp luật, quyền sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận hoặc nhận chuyển quyền sử dụng cho những người cùng chung sống trong một hộ gia đình được xác định là tài sản chung của hộ. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải thể hiện đất thuộc sở hữu của “Hộ gia đình Ông (Bà)”.

 

Việc định đoạt quyền sử dụng đất là tài sản chung của hộ phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần. Theo quy định tại Điều 209 Bộ luật dân sự năm 2015 thì: “ 2. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác…”

 

Đối với vụ việc trên, việc xác định chính xác quyền sở hữu thuộc về ông, bà hay hộ gia đình cần thiết cho quá trình giải quyết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Như phân tích trên, căn cứ xác định chủ sở hữu của thửa đất ngoài thời điểm Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất còn phải căn cứ vào thời điểm Nhà nước giao đất. Nhà nước giao đất để đảm bảo mọi thành viên trong gia đình có chỗ ở hợp pháp dựa trên cơ sở nhân khẩu của gia đình, và từ đó phát sinh quyền sở hữu của các thành viên.

 

Vậy, mặc dù giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi: “Cấp cho hộ gia đình ông A” nhưng không chỉ dựa vào đó để xác định quyền sở hữu thuộc về những ai. Anh cùng các thành viên gia đình cần cung cấp mọi tài liệu, chứng cứ, văn bản xác nhận,... nộp tới cơ quan có thẩm quyền giải quyết để giải quyết. Với những tài liệu, chứng cứ anh cung cấp, chúng tôi chưa đủ cơ sở để đưa ra nội dung trả lời tài sản trên thuộc quyền sở hữu của những ai để chia cụ thể.

 

Tiếp theo, về quyền thừa kế theo quy định của pháp luật.

 

Điều 650 BLDS 2015 quy định những trường hợp thừa kế theo pháp luật:

 

“ 1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:

 

a) Không có di chúc;

 

b) Di chúc không hợp pháp;

 

c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;

 

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

 

2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

 

a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;

 

b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;

 

c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

 

Điều 651 BLDS 2015 quy định người thừa kế theo pháp luật:

 

“ 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết…”

 

Theo quy định trên, tất cả các con của ông, bà đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng một phần bằng nhau. Vậy, để đảm bảo quyền lợi thì bố và các cô của anh nên tham dự đầy đủ các buổi làm việc tại cơ quan đang thụ lý vụ việc và cung cấp quan điểm của mình.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

Phòng tư vấn - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo