Phạm Diệu

Phân chia tài sản của gia đình thế nào khi người cha có 2 vợ?

Luật sư tư vấn về vấn đề phân chia tài sản trong gia đình khi người cha có hai vợ. Nội dung tư vấn như sau:

 

Kính thưa Luật sư! Tôi có một việc liên quan đến phân chia tài sản trong gia đình có phần hơi rắc rối, kính nhờ LS tư vấn giúp! Ngôi nhà A là Từ đường do Ông Bà tôi xây cất, OBà tôi có 03 người con (cô tôi là giữa), OBà tôi giao lại cho Bác tôi quyền thừa kế, Bác tôi đi xa nên giao lại cho Ba tôi. Ngôi nhà B là nhà riêng của Cha mẹ ruột tôi với 03 chị em tôi. Mẹ tôi ly hôn để lại ngôi nhà cho 04 cha con tôi sinh sống. Sau một thời gian cha tôi cưới mẹ kế về, mẹ kế dắt thêm 01 người con riêng về theo. Cha mẹ kế tôi có chung với nhau thêm 03 người con nữa, (anh ruột tôi vì bị bệnh nên đã mất trong thời gian này). Hiện nay tất cả các người con chung và riêng đều đã lập gia đình, mẹ kế tôi có ý chia nhà cửa cho các con như sau: Ngôi nhà B, bà ta lý lẽ rằng sau giải phóng ngôi nhà đã bị hoá giá, cha mẹ kế tôi phải mua lại và bỏ tiền ra sửa chữa lại khang trang, nên bây giờ để lại cho 03 đứa con chung, chỉ cho 02 chị em tôi (con riêng của Ba tôi) mỗi người chút ít để làm quà. Ngôi nhà A, trước khi đi xa Bác tôi có dặn Ba tôi chia cho cô tôi và 02 chị em tôi (con riêng Ba tôi) mỗi người 1 phần đất để cất nhà ở, phần lớn hơn còn lại là của Từ đường. Nhưng hiện nay mẹ kế tôi lại muốn chia đều hết cho cả 03 đứa con chung nữa và nói cùng đồng sở hữu! Khu đất C, là phần đất của Tộc họ phía Ông Nội tôi chia cho Ba tôi, Ba tôi có nói 02 chị em tôi ai có tiền thì cất trước mà ở. 02 chị em tôi vì chưa có điều kiện nên chưa tiện xây, không hiểu vì lý do gì bây giờ cha tôi đã cho người con trai riêng của bà ta về xây và sở hữu! Xin hỏi Luật sư, với cách chia như vậy của cha mẹ kế tôi đã đúng chưa, vì không hiểu nhiều về luật nên kính phiền Luật sư tư vấn giúp! Xin chân thành cảm ơn Luật sư rất nhiều! 

 

Trả lời: Cảm ơn anh/chị đã gửi yêu cầu tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia. Với trường hợp của anh/chị, chúng tôi tư vấn như sau:

 

Hiện tại anh/chị đang thắc mắc về vấn đề phân chia tài sản trong gia đình. Theo như thông tin anh/chị cho biết, tài sản của gia đình gồm có: Ngôi nhà A là từ đường do ông bà xây cất; Ngôi nhà B là nhà riêng của bố anh/chị và người vợ thứ nhất; Khu đất C là phần đất của tộc họ, chia cho ba. Căn cứ vào thông tin trên, theo quy định của pháp luật, tài sản của gia đình sẽ được chia như sau:

 

Thứ nhất, về ngôi nhà A

 

Ngôi nhà A là từ đường do ông bà xây cất, ông bà để thừa kế lại cho người bác. Vì người Bác đi xa nên đã giao lại cho ba của anh/chị quản lý, đồng thời có dặn người ba chia cho người cô (em gái của bác) và 02 chị em (con riêng của ba) mỗi người một phần đất để cất nhà ở, phần lớn hơn còn lại là của từ đường.

 

Như vậy, trường hợp, nếu việc giao ngôi nhà A cho ba anh quản lý và việc phân chia như trên được thể hiện bằng văn bản thì việc phân chia phần đất ở ngôi nhà A sẽ thực hiện theo văn bản đó.

 

Trường hợp, nếu việc người bác giao lại ngôi nhà A cho ba của anh/chị quản lý và việc phân chia phần đất thuộc ngôi nhà A chỉ được thể hiện bằng lời nói, không được hợp thức hóa bằng văn bản thì phần đất cùng ngôi nhà A vẫn thuộc quyền sở hữu của người bác. Vì vậy, việc sử dụng hay định đoạt phần tài sản này sẽ do người bác quyết định.

 

Thứ hai, về ngôi nhà B

 

Ngôi nhà B là nhà riêng của cha mẹ ruột anh/chị và 3 người con. Mẹ ruột (người vợ thứ nhất) đã ly hôn và để lại toàn bộ căn nhà cho chồng và 3 người con.

 

Trường hợp, đất cấp cho hộ gia đình:

 

Căn cứ tại khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.”

 

Tại Điều 212 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

 

Điều 212. Sở hữu chung của các thành viên gia đình

 

1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

 

2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.

 

Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.

 

Như vậy, đất được cấp cho hộ gia đình thì thuộc quyền sở hữu chung của tất cả mọi thành viên trong hộ gia đình. Việc xác định những người có quyền đối với quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình được căn cứ vào sổ hộ khẩu tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.

 

Trường hợp đất cấp cho cá nhân nhưng cấp trong thời kì hôn nhân của bố mẹ ruột của anh/chị thì được xác định đây là tài sản chung của bố mẹ. Khi ly hôn, mẹ ruột của anh/chị đã đồng ý để lại phần tài sản thuộc sở hữu của mình cho chồng và các con. Do đó, ngôi nhà B sẽ là sở hữu chung hợp nhất của chồng và các con.

 

Tuy nhiên, người vợ thứ hai cho rằng: Sau giải phóng ngôi nhà đã bị hóa giá, bà và chồng đã bỏ tiền mua lại, đồng thời sửa chữa lại khang trang nên bây giờ chỉ để lại cho 03 người con chung, còn 02 người con riêng của người chồng chỉ được cho phần ít. Như vậy, việc phân chia của người mẹ kế như trên là không có căn cứ, bởi vì:

 

- Thứ nhất, ngôi nhà B có trước thời kì hôn nhân của người ba và người vợ thứ hai nên ở đây việc sử dụng và định đoạt ngôi nhà B sẽ do người ba và các con (con của người vợ thứ nhất) quyết định.

 

- Thứ hai, nếu trong thời kì hôn nhân, người vợ thứ hai có đóng góp công sức, tiền bạc để sửa chữa lại ngôi nhà thì người vợ thứ hai chỉ được hưởng phần giá trị của ngôi nhà tương ứng với công sức đóng góp.

 

Thứ ba, khu đất C

 

Khu đất C là phần đất của tộc họ phía ông nội chia cho ba của anh/chị. Do anh/chị không cung cấp rõ thông tin chia cho người ba tại thời điểm nào nên trường hợp nếu khu đất C này được xác định là sở hữu duy nhất của ba thì ba của anh/chị có toàn quyền quyết định đối với phần đất này.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề anh/chị hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, anh/chị vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.

CV tư vấn: Phạm Diệu - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo