Lại Thị Nhật Lệ

Hỏi tư vấn việc bị đơn không có mặt ở nơi cư trú

Tôi có đưa tiền cho người ta để làm thủ tục đưa con tôi ra nước ngoài. Người này nhận tiền xong không đưa con tôi ra nước ngoài được nên có viết giấy hẹn "nếu không đưa cháu sang Anh được thì sẽ trả lại toàn bộ tiền trong vòng 2 tháng". Nhưng kết quả Cháu không đi được Anh và người này cũng không trả tiền, tôi đi đòi mãi mà không được.


Tôi làm đơn gửi đến Công an nhờ giải quyết thì họ gọi 2 bên lên, phía bên kia trả cho tôi được 1/10 số tiền đã nhận sau đó không thấy trả thêm. Công an nói cái này thuộc lĩnh vực dân sự nên bảo tôi khởi kiện ra Tòa. Tôi khởi kiện ra Tòa, Tòa tống đạt thông báo thụ lý thì xác định họ không có mặt địa phương, yêu cầu tôi cung cấp địa chỉ mới hoặc tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú. Nếu không thì đình chỉ vụ án.

Xin hỏi: Việc bỏ đi khỏi địa phương của bị đơn có phải dâu hiệu bỏ trốn để yêu cầu giải quyết hình sự không ạ? Tại sao tôi phải yêu cầu tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú? Nếu không tìm kiếm được thì có thể yêu cầu cơ quan Công an giải quyết về hành sự không? Rất mong nhận được sự tư vấn của Văn phòng Luật Minh Gia. Tôi trân thành cảm ơn!

Trả lời: 
Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi tư vấn đến công ty Luật Minh Gia. Chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:

 

- Hành vi của người này có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

 

Trong trường hợp của bạn, người kia đã nhận tiền và nói làm thủ tục đưa con bạn ra nước ngoài và có giấy hẹn nếu không đưa được cháu ra nước ngoài sẽ hoàn trả lại số tiền trong vòng hai tháng. Nhưng đã hết thời hạn, người này không đưa được con bạn ra nước ngoài và cũng chưa hoàn trả lại số tiền trên. Và hiện nay, người này còn có hành vi rời khỏi nơi cư trú để trốn tránh nghĩa vụ trả lại số tiền trên.

 

Ở đây, đã có dấu hiệu của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản - người này: hứa hẹn bằng lời nói là sẽ đưa con bạn sang Anh và còn viết giấy hẹn nếu không đưa được cháu sang Anh sẽ hoàn trả lại số tiền trên trong vòng hai tháng. Lời nói cùng với giấy hẹn đã làm bạn tin rằng người này có khả năng đưa con bạn sang Anh và sẽ hoản trả lại số tiền nếu không thực hiện được nên bạn đã tin tưởng và giao tiền cho họ. Tuy nhiên, khi thời hạn đã hết con bạn không ra được nước ngoài và người này cũng không hoản trả lại số tiền cho bạn như lời hứa, giấy hẹn và hiện còn có hành vi rời khỏi nơi cư trú để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Người đó, đã có sự gian dối trong hành vi và lời nói nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của bạn nên người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

 

Căn cứ tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

 

“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

 

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

 

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

 

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

 

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

…”.

 

- Tại sao tôi phải yêu cầu tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú? Nếu không tìm kiếm được thì có thể yêu cầu cơ quan Công an giải quyết về hình sự không?

 

Tòa án yêu cầu bạn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn hoặc yêu cầu tìm kiếm người vắng mặt là thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bởi trong trường hợp này, đã có sự sai về nội dung của đơn khởi kiện: “địa chỉ của bị đơn”.

 

Tại khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:

 

“Điều 192. Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện

 

1. Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:

e) Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này.

 

Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

 

Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện;

…”.

 

Nếu người khởi kiện không thực hiện, thì Toà án căn cứ vào khoản 2 Điều 193 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ mà không được thụ lý vụ án. Việc Toà án thụ lý vụ án để sau đó ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án với lý do “chưa tìm được địa chỉ của bị đơn” là không đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, vì đây không phải là một trong những trường hợp Toà án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Toà án cũng không được tự mình tiến hành thông báo tìm người bị kiện, vì đây là nghĩa vụ của đương sự.

 

Căn cứ theo Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện như sau:

 

“Điều 193. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện

 

1. Trường hợp đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản 4 Điều 189 của Bộ luật này thì Thẩm phán thông báo bằng văn bản nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung cho người khởi kiện để họ sửa đổi, bổ sung trong thời hạn do Thẩm phán ấn định nhưng không quá 01 tháng; trường hợp đặc biệt, Thẩm phán có thể gia hạn nhưng không quá 15 ngày. Văn bản thông báo có thể được giao trực tiếp, gửi trực tuyến hoặc gửi cho người khởi kiện qua dịch vụ bưu chính và phải ghi chú vào sổ nhận đơn để theo dõi. Thời hạn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện không tính vào thời hiệu khởi kiện.

 

2. Trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản 4 Điều 189 của Bộ luật này thì Thẩm phán tiếp tục việc thụ lý vụ án; nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.”.

 

Do đó, trong thời hạn 30 ngày, trường hợp đặc biệt không quá 45 ngày bạn phải thực hiện sửa đổi nội dung đơn khởi kiện, cung cấp địa chỉ mới của bị đơn hoặc yêu cầu tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú. Nếu hết thời hạn trên mà bạn thực hiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện thì Tòa án sẽ tiếp tục thụ lý vụ án; nếu không sửa đổi thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện theo pháp luật tố tụng dân sự.

 

Nếu không xác định địa chỉ của bị đơn thì bạn tự mình phải thực hiện tìm kiếm, Tòa án sẽ không phải thực hiện việc tìm kiếm bởi đây không phải trách nhiệm của Tòa án. Nếu không tìm kiếm được địa chỉ của bị đơn thì bạn sẽ bị trả lại đơn khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Hỏi tư vấn việc bị đơn không có mặt ở nơi cư trú. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

Cv: Vũ Nga – Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo