Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Hỏi tư vấn về hành vi vu khống người khác

Kính gửi quý công ty Luật Minh Gia.Tôi đang gặp vướng mắc một số vấn đề về luật pháp ạ. sự việc của tôi, tôi xin đươc kể ra đây, mong quý công ty giải đáp giúp tôi và xin cho tôi lời khuyên ạ.Chồng tôi làm công nhân cho một công ty tư nhân

 

Công ty này có một khoản nợ khó đòi với một đối tác, sau nhiều năm giám đốc công ty chồng tôi làm cho nhân viên đi đòi nhiều lần mà không được. Năm 2015, giám đốc công ty chồng tôi có bảo chồng tôi đòi hộ, và sẽ chia hoa hồng cho chồng tôi là 10,000,000 VNĐ sẽ trả 1,000,000 VNĐ. Lần đầu đòi, người ta chuyển vào TK của anh gd số tiền là 15,000,000 VNĐ. sau khi người ta chuyển tiền trả gd nhưng anh gd không giữ lời hứa và không chi trả hoa hồng cho chồng tôi.Lần 2, lần 3, lần 4 chồng tôi đòi mỗi lần người ta trả là 10,000,0000; 10,000,000; và 5,000,000 VNĐ. các lần này chồng tôi yêu cầu bên chuyển tiền chuyển vào TK cá nhân của tôi, chồng tôi muốn mình là người đòi được nợ thì sẽ trực tiếp cầm số tiền đòi được ra trả anh giám đốc và yêu cầu anh chi trả hoa hồng, tránh như lần đầu hứa mà không trả nên chồng tôi mới yêu cầu chuyển vào tk cá nhân) Sau mỗi lần chuyển khoản trả bên khách hàng của giám đốc đều gọi điện báo cho anh giám đốc là đã chuyển trả khoản tiền bao nhiêu.Sau khi khách hàng chuyển tiền trả vào TK cá nhân, chồng tôi rút về và trả cho giám đốc, nhưng khi chồng tôi giao tiền trả anh giám đốc đã không kí nhận giấy tờ nộp tiền nào. đến nay là tháng 09/2016, anh GĐ có gắp khách hàng trả nợ, hai bên đối chiếu công nợ, khách hàng đã chuyển trả anh GĐ tổng 40,000,000 VNĐ nhung GĐ k kí nhận và quay sang kiện chồng tôi là chiếm đoạt tiền của công ty.

Nay em có một số câu hỏi nhờ luật sư giải đáp giúp ạ:-chồng tôi có phải chịu hình phạt là thế nào

Anh GĐ khẳng định chắc chắn trước mặt nhiều người là khách hàng chuyển vào tk của tôi 40,000,000 chứ không phải 25,000,000. vậy hành động đó của anh GĐ có được gọi là vu khống không ạ? và nếu là tội thì bị sử phạt như thế nào ạ?

Trường hợp chồng tôi làm việc ba năm nhưng không có hợp đồng lao động và đóng bh, như vậy công ty có sai không ạ.  em xin chân thành cảm ơn ạ!Trân Trọng kính thư!-- Kính chào.

 

Trả lời: Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi tới Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, bản chất trong trường hợp này là người nhân viên đòi nợ thay và nhận số tiền mà khách hàng đã trả. Nhân viên này sau khi đòi được nợ là 25 triệu đồng chuyển vào tài khoản cá nhân của họ đã bàn giao lại 25 triệu cho người giám đốc của công ty. Như vậy, rõ ràng không có hành vi chiếm đoạt tài sản của công ty. Tuy nhiên, cần có chứng cứ chứng minh việc chồng bạn đã bàn giao lại số tiền 25 triệu cho người giám đốc.

 

Thứ hai, việc giám đốc công ty khẳng định chắc chắn trước mặt nhiều người là khách hàng đã chuyển vào tài khoản của bạn là  40,000,000 chứ không phải 25,000,000 là không có căn cứ vì số tiền 15,000,000 đầu tiên được chuyển vào tk của người giám đốc này, mặt khác trên chứng từ chuyển tiền cũng thể hiện rất rõ số tiền giao dịch thực tế khách hàng chuyển vào là 25 triệu.

 

Thứ ba, hành vi không có hợp đồng lao động và không  đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động.

 

Theo Điều 18 Bộ luật Lao động 2012 quy định về nghĩa vụ giao kết hợp đồng lao động như sau:

 

“1. Trước khi nhận người lao động vào làm việc, người sử dụng lao động và người lao động phải trực tiếp giao kết hợp đồng lao động.

 

Trong trường hợp người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì việc giao kết hợp đồng lao động phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người lao động.

 

2. Đối với công việc theo mùa vụ, công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng thì nhóm người lao động có thể ủy quyền cho một người lao động trong nhóm để giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản; trường hợp này hợp đồng lao động có hiệu lực như giao kết với từng người”.

 

Đồng thời tại Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2006 quy định như sau:

 

"1. Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm:

 

a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;

 

b) Cán bộ, công chức, viên chức;

 

c) Công nhân quốc phòng, công nhân công an;

 

d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân;

 

đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn;

e) Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.

 

2. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.

 

3. Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng với người sử dụng lao động quy định tại khoản 4 Điều này.

 

4. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là người sử dụng lao động quy định tại khoản 2 Điều này có sử dụng từ mười lao động trở lên”.

 

Theo quy định trên, để bảo về quyền lợi của mình, anh Hiếu và các thành viên của công ty có thể yêu cầu với lãnh đạo công ty thực hiện các thủ tục ký kết hợp đồng lao động và đóng bảo hiểm xã hội cho mình. Trong trường hợp công ty này từ chối, bạn có quyền làm đơn khiếu nại đến Phòng Lao động - thương binh và xã hội cấp quận/huyện nơi công ty đóng trụ sở để nhờ can thiệp hoặc khởi kiện ra tòa án nhân dân có thẩm quyền để được giải quyết. 

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Hỏi tư vấn về hành vi vu khống người khác. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

Nguyễn Mỵ - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo