Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Có đòi lại được tài sản cho vay, nhờ đứng tên nhưng không có giấy tờ không?

Cho vay tài sản nhưng không có hợp đồng thì có căn cứ nào để đòi lại tài sản, đảm bảo quyền và lợi ích của mình không? Luật sư tư vấn cụ thể như sau:

Cho vay tài sản, nhờ người khác đứng tên trên tài sản không còn là trường hợp quá xa lạ với nhiều người. Trên thực tế có rất nhiều trường cho vay hoặc nhờ người khác đứng tên tài sản nhưng không có giấy tờ rõ ràng dẫn đến rất nhiều rủi ro cho bên cho vay, nhờ đứng tên. Vậy các rủi ro cụ thể như thế nào? Làm thế nào để giảm thiểu các rủi ro này? Nếu bạn có nhu cầu tư vấn cụ thể bạn có thể liên hệ lại với Công ty Luật Minh Gia để được chúng tôi hỗ trợ tư vấn cụ thể vấn đề của mình.

Nội dung câu hỏi: Tôi tên là B hiện sinh sống ở nước ngoài, có yêu 1 cô tên M. Sau khi tôi làm lễ cưới hỏi (chưa làm hôn thú), tôi đưa cô M vào Sài Gòn sinh sống, mở cửa hàng buôn bán...hy vọng kinh doanh tốt, rồi có con với nhau, sau đó tôi thu xếp về nước sống chung, và làm giấy hôn thú....cho cuộc sống gia đình sau này.  Cửa hàng thì ở chung với anh ruột của tôi (có vợ và 2 cháu) vì tôi không ở nhà mà lại ra nuớc ngoài công tác, một năm tôi về phép 2 lần, mỗi lần 1 tháng. Trong thời kỳ hôn nhân tôi có đưa tiền cho gia đình vợ trả nợ số tiền lần lượt là 25tr trả nợ cá nhân và 35tr trả nợ cho ngân hàng nhà nước nhưng không có giấy tờ vay rõ ràng. Sau đó, tôi có gửi về 900 triệu đồng để nhờ gia đình vợ mua đất đấu giá tại địa phương. Gia đình vợ đã mua được 2 mảnh đất, 1 mảnh do bố vợ đứng tên, 1 mảnh do tôi đứng tên. Số tiền còn thừa lại sau khi mua đất là 100 triệu do vợ tôi cầm. Hiện tại, hai chúng tôi không còn tình cảm, vợ tôi muốn chia tay nhưng gia đình vợ không muốn trả lại tôi số tiền tôi đã giúp đỡ trả nợ và mảnh đất do bố vợ đứng tên. Hỏi hành vi của họ có phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không? Tôi có lấy lại được tài sản này không?

Trả lời: Cảm ơn danh đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của anh chúng tôi tư vấn như sau:

Tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) có quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

…”

Tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) có quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

…”

Theo đó, một người chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có chứng cứ chứng minh người này cố tình đưa ra thông tin gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc có hành vi bỏ trốn nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản hoặc có tài sản nhưng cố tình không trả hoặc đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Đối chiếu với trường hợp của anh, với các thông tin anh cung cấp chúng tôi nhận thấy chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định đã nêu trên do việc bạn đưa tiền cho gia đình vợ là dựa trên ý chí tự nguyện.

Nếu anh muốn lại tài sản đã đưa cho gia đình vợ thì anh cần có chứng cứ chứng minh việc đưa tiền này là cho vay và phần tài sản quyền sử dụng đất do bố vợ đứng tên chỉ là nhờ đứng tên. Khi có căn cứ chứng minh vấn đề này thì anh có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khi họ không trả lại tài sản cho mình.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo