Nông Bá Khu

Chia di sản thừa kế khi người chết không để lại di chúc ?

Xin chào Luật sư công ty Luật Minh Gia, cho tôi hỏi về chia thừa kế khi ông bà chết không để lại di chúc như sau: Gia đình ông bà tôi có 6 người con, ông tôi và bà nội tôi đã mất (ông bà mất năm 1995), người con thứ tư cũng mất cách đây khá lâu. Ông bà tôi có để lại một mảnh đất bao gồm cả đất vườn và đất ở nhưng khi ông bà mất thì không để lại di chúc.

 

Đến nay những người con còn sống của ông bà muốn chia cho người con trai út của ông bà ½ mảnh đất và còn ½ mảnh đất sẽ chia đều cho 5 người con còn lại (trong đó có người con thứ tư đã mất, có vợ và 3 con còn sống). Nhưng khi thỏa thuận thì vợ và con (của người con trai thứ 4 của ông bà đã mất) cũng muốn được hưởng phần tài sản bằng với phần tài sản của các con còn lại cả ông bà trừ người co út đã được chia ½ mảnh đất. Vậy xin hỏi Luật sư, với tình huống này sẽ giải quyết như thế nào khi không thỏa thuận được và dẫn đến có tranh chấp xảy ra ? Tôi xin chân thành cảm ơn !

 

Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi yêu cầu tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, chúng tôi tư vấn cho trường hợp của bạn như sau:

 

Thứ nhất, về chia di sản thừa kế theo pháp luật

 

Theo thông tin bạn đã cung cấp thì ông bà bạn mất và không để lại di chúc nên khi có yêu cầu về chia di sản thừa kế thì những di sản này sẽ được chia theo pháp luật đã được quy định tại Khoản 1 Điều 650 Bộ luật dân sự 2015:

 

Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

 

1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:

 

a) Không có di chúc;

 

b) Di chúc không hợp pháp;

 

c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;

 

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. 

 

Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 có quy định như sau:

 

Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

 

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

 

Như vậy, theo như quy định thì chỉ những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất sẽ được hưởng di sản thừa kế và sẽ được hưởng phần di sản ngang nhau. Theo đó, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất trong trường hợp này sẽ bao gồm các con của ông bà. 

 

Đối với trường hợp của người vợ và con của người con trai thứ tư đã mất, do người con trai mất sau thời điểm mở thừa kế nên cũng sẽ được hưởng một phần di sản thừa kế bằng với những người con còn lại. Theo đó, vợ và các con sẽ là người thừa kế thứ nhất của người con thứ 4 và vợ và con của người này sẽ chỉ được hưởng phần trong phạm vi quyền của người con thứ 4. Tức là phần di sản người con thứ 4 được hưởng sẽ được chiều điều cho vợ và con của người này. 

 

Thứ hai, về phân chia di sản thừa kế khi không có di chúc 

 

Căn cứ theo quy định của pháp luật thì khi người mất không để lại di chúc thì di sản đó sẽ dược chia theo pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp của bạn, vì ông bà bạn đã mất cách đây 21 năm, có nghĩa là đã đã vượt quá quy định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế được quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015:

 

Điều 623. Thời hiệu thừa kế

 

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

 

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

 

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

 

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

Theo đó, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản thừa kế theo như quy định trên sẽ là 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Do đó, trường hợp của bạn thì thời hiệu để các thành viên trong gia đình bạn yêu cầu chia di sản thừa kế do ông bà nội để lại là 30 năm kể từ khi ông bà bạn mất - tính ở thời điểm hiện tại.

 

Do vậy, nếu như các thành viên có thể thỏa thuận được thì phần di sản thừa kế sẽ được chia theo thỏa thuận đó. Nếu không thể thỏa thuận được thì các con trai thuộc hàng thừa kế thứ nhất và vợ con của người con trai thứ tư sẽ có quyền khởi kiện. Các bên cũng có thể đến văn phòng công chứng để thỏa thuận về phân chia di sản thừa kế hoặc có thể gửi đơn yêu ầu Tòa án chia di sản thừa kế theo pháp luật.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Chia di sản thừa kế khi người chết không để lại di chúc ? Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

Cv Hà Thảo - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo